1. Mở đầu
Là
những tác phẩm xuất sắc của văn học dân tộc, ngay từ khi Nguyễn Du còn tại thế,
các sáng tác của ông đã được nhiều người thưởng thức, phẩm bình. Trải qua hơn
hai thế kỉ, các sáng tác này vẫn luôn có một sức sống mãnh liệt, trở thành một
trong những bộ phận quan trọng nhất của văn học dân tộc.
Vượt
ra ngoài phạm vi của trang giấy, các sáng tác của Nguyễn Du, đặc biệt là Truyện Kiều từ lâu đã trở thành những
người bạn tinh thần của người Việt qua bao thế hệ. Những sáng tác ấy được nhân
dân ta yêu quý, trân trọng, truyện tụng; chúng trở thành niềm tự hào, nơi gởi
gắm tâm tư tình cảm của người Việt. Có thể nói, tác phẩm của Nguyễn Du là những
sáng tác in đậm dấu ấn trong tiến trình văn hóa dân tộc, trở thành một trong
những bản sắc độc đáo của văn hóa người Việt ta. Điều này thể hiện rất rõ qua
các hình thức tiếp nhận tác phẩm của Nguyễn Du hết sức phong phú, độc đáo của
người Việt, điều mà ở các dân tộc khác, những tác phẩm vĩ đại của họ không làm
được.
Trong
các tác phẩm còn để lại của Tố Như tử, Truyện
Kiều và Văn chiêu hồn là hai bộ
phận được truyền tụng phổ biến nhất trong dân gian. Những hình thức tiếp nhận
độc đáo đậm bản sắc văn hóa các sáng tác của Nguyễn Du chủ yếu gắn liền với hai
tác phẩm này. Cho nên, tiểu luận chỉ tập trung vào tìm hiểu việc tiếp nhận dưới
góc nhìn văn hóa hai tác phẩm thơ Nôm này.
2. Tiếp nhận Truyện Kiều
Truyện Kiều được tiếp nhận bởi nhiều
hình thức phong phú và đặc sắc. Theo thời gian, sự tiếp nhận đó mở rộng đến qui
mô quốc gia và quốc tế. Ban đầu, Truyện Kiều được một số
nho sĩ chuyền tay nhau đọc, sau đó, hình thức tiếp nhận phát triển thành các
phong trào xướng họa, ngâm vịnh, bình phẩm, kể cả mang hình thức
các cuộc thi. Đó là sự tiếp nhận trong phạm vi trí thức nho sĩ, bao
gồm cả phạm vi cung đình. Nhân dân đọc Kiều, ngâm Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, bói
Kiều…Mở rộng ra xã hội, các nhân vật Truyện Kiều bước lên sân
khấu, tuồng chèo, cải lương, và đến thời hiện đại, điện ảnh đã khai thác Truyện
Kiều; dựa vào thế giới nhân vật và tích truyện, các họa
sĩ vẽ tranh, điêu khắc; để phục vụ cho thú “chơi” sách đẹp, đã từng có các bản
in được trình bày đẹp, in trên giấy tốt; các nhà thư pháp viết thư pháp Truyện
Kiều … Trong giới nghiên cứu phê bình có những học giả chuyên
nghiên cứu văn bản và các phương diện khác nhau của Truyện Kiều.
2.1. Bình Kiều
Bình là bàn tán. Bình Kiều là
bình luận, tán thưởng cái hay, cái đẹp trong Truyện Kiều, một trong
những thú chơi tao nhã của văn nhân, trí thức ngày trước. Bình Kiều có một lịch
sử lâu dài. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã được nhiều người yêu thích, ngâm
ngợi và luận bình. Cho đến nay, bình Kiều vẫn còn được tiếp tục, trở thành một
trong những nét đẹp trong văn hóa người Việt.
Hai
cái tên được nhắc đến đầu tiên Trong lịch sử phê bình văn hoc trung đại Việt
Nam là Vũ Trinh (anh rể Nguyễn Du)
và Nguyễn Lượng (con thư 9 của
Nguyễn Nghiễm). Những lời bình tỏ ra ra rất tinh tế, chẳng hạn hai câu : “Kiếp
hồng nhan có mong manh / Nửa chừng xuân, thoắt gãy cành thiên hương”, Vũ
Trinh phê: “Nơi tự sự còn mang theo giọng bi thảm, càng cảm thấy có ý vị”.
Hay
như trong đoạn Kiều mơ thấy Đạm Tiên, Vũ Trinh lại phê: “Có nghiệt căn ấy thì
có mộng ảo ấy. Chẳng phải Đạm Tiên tìm đến Kiều mà chính tự trong lòng Kiều
không có phút giây nào không có Đạm Tiên”.
Hoặc như cảnh
Kiều đánh đàn hẩu rượu Hồ Tôn Hiến, Nguyễn
Lượng phê: “Chỉ thử nhất cú vô hạn
thương cảm, tưởng đương nhật Thúy Kiều ngũ chỉ thượng huyết thanh đô tùng tác
giả nhất chi bút đầu tâm huyết trung xuất lai” (Chỉ một câu thơ này mà lòng
thương cảm vô hạn, tưởng như ngày ấy những tiếng đàn đẫm máu trên năm đầu ngón
tay của Thúy Kiều do từ tâm huyết của tác giả mà trào ra đầu ngọn bút).
Đây là những lối phê bình
khá tự do và linh hoạt, không phải viết thành bài nên nhiều khi gặp những ý hay
là ghi ra không cần phải mở bài hay kết luận dài dòng mà cũng không cần phải
câu nệ về mặt nào.
Bài Tựa Truyện Kiều của Tiên
Phong Mộng Liên Đường chủ nhân viết cho bản Kiều năm 1820 được coi là bài
bình Kiều hoàn chỉnh đầu tiên còn lại đến nay, trong đó có đoạn: “Trong một tập thủy chung lấy bốn chữ “tạo
vật đó tài” tóm cả một đời Thúy Kiều: khi lai láng tình thơ, người tựa án khen
tài châu ngọc, khi nỉ non tiếng nguyệt, khách dưới đèn đắm khác tiêu dao; khi
duyên ưa kim cải, non bể thề bồi; khi đất nổi ba đào, cửa nhà tan tác, khi lầu
xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cùng chồn chân, khi kinh kệ, khi can qua,
mùi từng trải nghĩ mà tê lưỡi. Vui, buồn, tan, hợp, mười mấy năm trời, trong
cuốn văn tả ra như hệt, không khác gì một bức tranh vây. Xem đến chỗ giấc mộng
đoạn trường tỉnh dậy mà căn duyên gỡ vẫn chưa rồi; khuc đàn bạc mệnh gẩy xong,
mà oán hận vẫn còn chưa hả, thì dẫu đời xa người khuất, không được mục kích tận
nơi nhưng lời văn tả ra hình như máu chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở
trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột.
Thế thì gọi tên Đoạn Trường Tân Thanh cũng phải….”
Thể loại bình điểm này rất phổ biến trong thời trung đại với thú
chơi thơ của tao nhân mặc khách ngày trước, về sau không thấy tiếp tục. Người
đời sau vẫn say mê Kiều, tiếp tục Bình Kiều ở việc chú giải, chú thích hệ thống
từ ngữ, điển cố, văn liệu. Vô vàn bài viết bình giảng Kiều làm cho tác phẩm đạt được kỉ lục tác phẩm có số lượng trang
viết bình luận, nghiên cứu về nó nhiều nhất.
2.2. Vịnh Kiều
Ngay từ thời trung đại, đã có nhiều tác giả sáng tác thơ văn vịnh
về các nhân vật, tình tiết trong Truyện
Kiều. Nguyễn Công Trứ vịnh về Kiều : “Bạc
mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa / Đoạn trường cho đàng kiếp tà dâm”. Nguyễn
Khuyến vịnh về nhân vật Kim Trọng : “Khăng
khăng giữ lấy một phần đuôi”. Nguyễn Cư Trinh làm riêng một tập thơ bàn
luận về cuộc đời của nàng Kiều đặt tên Thanh
Tâm tài nhân thi tập…
Ở thời hiện đại, có nhiều tác giả vịnh Kiều. Tản Đà Nguyễn Khắc
Hiếu : “Đôi hàng nước mắt, đôi làn sóng /
Nửa đám ma chồng, nửa tiệc qua / Tổng đốc có thương người bạc mệnh / Tiền đường
chưa chắc mả hồng nhan”. Tố Hữu : “Nửa
đêm qua huyện Nghi Xuân / Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều”. Chế
Lan Viên cảm thương cho số phận nàng Kiều : “Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc / Sắc tài sao mà lại lắm truân
chuyên”. Trương Nam Hương xót xa cho tình cảnh vợ hờ của nàng Vân : “Lấy người yêu chị làm chồng… Kiều ơi em biết
bao giờ được yêu”….
Truyện Kiều sẽ còn sống mãi trong đời
sống văn học dân tộc, trở thành cảm hứng cho người đời sau sáng tác. Bình Kiều,
vịnh Kiều vì thế cũng sẽ vẫn còn là món ăn tinh thần mang đậm đã bản sắc dân
tộc của người Việt Nam ta.
2.3. Tập
Kiều, lẫy Kiều
Tập Kiều, lẫy Kiều là học tập lại Truyện Kiều, vận dụng những câu thơ của
Kiều vào trong sáng tác văn chương, trong đời sống sinh hoạt, đời sống ngôn
ngữ. Đây là hình thức sinh hoạt văn hóa rất đặc trưng của người Việt. Hình thức
tập Kiều, lẫy Kiều rất phong phú, có từ lúc Truyện Kiều mới ra đời.
Từ rất sớm, trong ca dao dân ca, tác
giả dân gian đã biết lẫy Kiều, tập Kiều thành những câu thơ đặc sắc trong kho
tàng văn học dân gian nước nhà. Số lượng những bài ca dao tập Kiều, lẫy Kiều
rất lớn. Có thể kể ra một số bài tiêu biểu như : “Thức khuya, dậy sớm chuyên cần / Quạt nồng ấp lạnh, giữ phần cho con”,
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Đường trần ai
vẽ ngược xuôi hỡi chàng”, “Sen xa hồ,
sen khô hồ cạn / Liễu xa đào, liễu ngã đào nghiêng / Anh xa em như bến xa
thuyền / Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho tái hồi”…
Thời trung đại, có Nguyễn Công Trứ là
người tiêu biểu cho việc học tập Kiều trong sáng tác của mình. Trong thơ ông có
những câu là nguyên văn hoặc một phần của câu thơ Kiều, chẳng hạn như : “Dập dìu những văn nhân tài tử… Chơi cho đài
cát cho người biết tay… Trong ngọc đá vàng thau ai biết thử… Đem ngàn vàng mua
lấy tiếng cười…”.
Thời hiện đại, tập Kiều, lẫy Kiều được
nhiều tác giả vận dụng thành công vào sáng tác của mình để tạo nên những tác
phẩm có giá trị. Tố Hữu trong bài Kính
gửi cụ Nguyễn Du có những câu thơ học từ Kiều, chẳng hạn : “Nỗi niềm
xưa nghĩ mà thương / Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Bác Hồ là một tác
gia tiêu biểu nhất cho việc học tập Truyện
Kiều. Trong các sáng tác bằng văn xuôi (truyện, kí, văn chính luận…), trong
thơ tuyên truyền, thậm chí trong các bài báo, các bài nói chuyện…
Trong đời sống sinh hoạt của người
Việt, tập Kiều, lẫy Kiều rất phát triển. Hầu như người Việt nào cũng thuộc dăm
ba câu Kiều. Thậm chí có những cụ già ở quê không biết chữ nhưng lại có thể
thuộc hàng trăm câu Kiều. Mặt khác, tiếng Việt vốn giàu nhạc tính và hình
tượng, người Việt lại yêu chuông văn thơ. Cho nên việc tập Kiều, lẫy Kiều trong
lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân có điều kiện phát triển. Chẳng hạn ngày
nay ta hay bảo những người đàn ông trăng hoa hay đi lừa tình người khác là “thằng Sở Khanh”. Hay như để miêu tả nhan
sắc người phụ nữ, ca dao hiện đại có câu : “Trong
xa thì tưởng Thúy Kiều / Lại gần mới biết người yêu Chí Phèo”…
2.4. Câu
đối Kiều
Viết, tặng câu đối khi có những sự
kiện trọng đại (hôn lễ, tân gia, đỗ đạt, tang gia…) nhằm bày tỏ tình cảm (chia
vui, chúc phúc, chia buồn…) là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của
người Việt. Đặc biệt trong thời trung đại, khi mà chữ nghĩa, đạo lí thánh hiền
được đề cao, câu đối thể hiện sự uyên bác, tài hoa rất được chuộng, trở thành
một trong những cách để thử tài trí và khả năng ứng biến của người có học. Người
được xem lại học rộng, biết nhiều, có tài văn chương là người phải biết làm câu
đối, ứng lại câu đối của người khác một cách tài tình.
Trong kho tàng câu đối của người Việt,
có một bộ phận khá lớn là những câu đối liên quan đến các tích hoặc câu chữ
trong Truyện Kiều mà người ta gọi là
Câu đối Kiều. Đây là một trong những cách tiếp cận Truyện Kiều độc đáo, mang đậm giá trị văn hóa của dân tộc ta. Có
thể kể ra vài câu đối Kiều tiêu biểu như :
Dán vườn
hoa :
Dường gần rừng tía, dường xa bụi
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng
Dán cửa vườn :
Sửa chốn thanh nhàn, có cây có đá sẵn
Vui trông phong cảnh, khi thầy khi tớ xem
Mừng đám cưới :
Gieo cầu đáng nơi, xuân lan thu cúc mặn mà cả
Trao tơ phải lứa, trai tài gái sắc xuân đương vừa
Cháu khóc chú dượng:
Giao loan chắp nối tơ thừa, một phút nào ngờ cô rước dượng
Thu ba e nề sóng lệ, trăm tình nỡ để cháu nuôi con
(Cô chết trước, sau đó chồng cô cũng chết theo).
Viếng cụ Phan Chu Trinh :
Cá chậu chim lồng chi bõ, gươm đàn nửa gánh. Chốc mười năm trời rộng bể khơi . Kể từ khi bước chân, trông vời cố quốc xiết bao, sẵn mối thương tâm, sau trước cười rằng tri kỷ mấy .
Ve kêu vượn hót nào tày, tuyệt bút một thiên . Suốt năm canh mưa sầu gió thảm . Hãy còn nhiều nợ lắm, nặng mối oan gia sao đã, rớt thầm giọt lệ, xa xôi ai có thấu tình chăng.
Dán cửa vườn hoa nhà cô dâu :
Tuyết điểm sương che, xuân lan thu cúc mặn mà cả;
Gió quang mây tạnh, thanh thiên bạch nhật rõ ràng
Đề nhà cô dâu :
Ngày xuân em hãy còn, còn non còn nước còn nhớ đến;
Làng chơi ta phải biết, biết người biết mặt biết lòng sao
Dường gần rừng tía, dường xa bụi
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng
Dán cửa vườn :
Sửa chốn thanh nhàn, có cây có đá sẵn
Vui trông phong cảnh, khi thầy khi tớ xem
Mừng đám cưới :
Gieo cầu đáng nơi, xuân lan thu cúc mặn mà cả
Trao tơ phải lứa, trai tài gái sắc xuân đương vừa
Cháu khóc chú dượng:
Giao loan chắp nối tơ thừa, một phút nào ngờ cô rước dượng
Thu ba e nề sóng lệ, trăm tình nỡ để cháu nuôi con
(Cô chết trước, sau đó chồng cô cũng chết theo).
Viếng cụ Phan Chu Trinh :
Cá chậu chim lồng chi bõ, gươm đàn nửa gánh. Chốc mười năm trời rộng bể khơi . Kể từ khi bước chân, trông vời cố quốc xiết bao, sẵn mối thương tâm, sau trước cười rằng tri kỷ mấy .
Ve kêu vượn hót nào tày, tuyệt bút một thiên . Suốt năm canh mưa sầu gió thảm . Hãy còn nhiều nợ lắm, nặng mối oan gia sao đã, rớt thầm giọt lệ, xa xôi ai có thấu tình chăng.
Dán cửa vườn hoa nhà cô dâu :
Tuyết điểm sương che, xuân lan thu cúc mặn mà cả;
Gió quang mây tạnh, thanh thiên bạch nhật rõ ràng
Đề nhà cô dâu :
Ngày xuân em hãy còn, còn non còn nước còn nhớ đến;
Làng chơi ta phải biết, biết người biết mặt biết lòng sao
2.5. Câu đố Kiều
Đố Kiều là một trong những lú chơi văn chương chữ
nghĩa ta nhã của người Việt ta xưa. Đó là hình thức thử trí tuệ, khả năng ứng
biến cũng như sự tinh thông của về Truyện
Kiều. Người đố đưa ra một câu hỏi thủ vị liên quan đến một vấn đề nào đó
của tác phẩm, người đáp nhớ lại Truyện
Kiều, chú ý đến các “mưu mẹo” và vận dụng sự hiểu biết của mình để đưa ra
đáp án chính xác nhất bắt nguồn từ trong tác phẩm này.
Trong kho tàng câu đố Việt Nam, câu
đố Kiều không chỉ có số lượng lớn mà còn là một trong những bộ phận giá trị.
Bởi nó không chỉ thông minh, sâu sắc, hóm hỉnh mà còn phản ánh được truyền
thống văn hóa Việt trong việc tiếp nhận tác phẩm vĩ đại nhất của văn học mình.
Có thể kể ra vài câu đố Kiều như :
Đố : Truyện Kiều anh đã thuộc làu / Đố anh tìm được 1 câu 6 người
Đáp : Này chồng này mẹ này cha / Này là em ruột này là em dâu
Hay
Đố
: Truyện Kiều anh đã thuộc lòng / Đố anh
tìm được 1 dòng toàn Nho
Đáp : Hồ Công quyết kế thừa cơ / Lễ tiên binh hậu khắc cờ chờ công
Hoặc
Đố
: Truyện Kiều anh đã thuộc làu / Đố anh
giảng được 1 câu 4 mình
Đáp : Oan kia theo mãi với người / Một mình mình chịu, 1 mình mình hay
2.6. Bói Kiều
Bói toán có nguồn gốc từ Đạo giáo của
Trung Quốc, khi du nhập vào Việt Nam, nó được tiếp thu và phổ biến trong giới
bình dân. Ngày nay, bói vẫn tồn tại và có vị trí quan trọng trong đời sống tâm
linh của một bộ phận người Việt.
Xem
bói trong những dịp lễ tết (đầu năm, trước khi làm việc gì lớn…) trong đó có
bói Kiều là một trong những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của người Việt. Có
được điều này trước hết có lẽ do bản thân tác phẩm có sức khái quát lớn về cuộc
đời, con người mà ở đó ai cũng có thể tìm thấy bóng dáng vận mệnh của mình
trong đó.
Tiện ích của bói Kiều được xây dựng
trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, người xưa thường
dùng câu Kiều để đoán định về tương lai. Đó là cách thức an ủi về tinh thần,
đồng thời giải đáp những khúc mắt trên cơ sở giảng giải câu thơ Kiều. Truyện Kiều có đến 3254 câu thơ, trong
đó nhiều câu đều có thể “vận” vào đời sống con người, do đó, hình thức bói Kiều
cũng rất đa dạng. Có thể kể ra một giai thoại bói Kiều tiêu biểu như sau :
Năm 1944, phát xít Nhật sợ thực dân
Pháp bắt Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn Ân, Đặng Văn Kí nên đã đưa các
ông này sang Singapo. Tại đây, cuộc sống quá khổ cực nên sau một thời gia các ông
muốn về nước. Dương Bá Trạc nói : “Tôi không tin bói toán nhưng nghiệm thấy bói
Kiều hay lắm. Khi xưa tôi đi thi Hương, bói một quẻ nói sẽ đỗ không ngờ đỗ thật.
Sau này bị đày ra Côn Lôn, bói một quẻ báo sẽ sớm được về nhà thì đúng mấy hôm
sau được về”. Trần Trọng Kim bảo hãy bói cho một quẻ. Dương Bá Trạc bá được hai
câu : “Việc nhà đã tạm thong dong / Tịnh
kì giục giã đã mong đồ về” và nói : “Chúng ta sắp được về rồi”. Và quả thật
không lâu sau đó, họ được về nước.
2.7. Hậu Truyện Kiều
Trên thế giới có nhiều tác phẩm xuất
sắc, sau khi ra đời được người ta viết thêm, viết lại. Chẳng hạn ta có Hậu cuốn theo chiều gió, Hậu Tây du kí. Các bộ tiểu thuyết kinh
điển của Trung Quốc như Tam quốc, Hồng lâu mộng… sở dĩ hoàn chỉnh như bây
giờ là do được chắp bút viết thêm. Ở nước ta, sau khi Truyện Kiều ra đời, cũng có Hậu Truyện Kiều. Thế nhưng khác biệt ở
chỗ, nếu như các tác phẩm khác người ta viết lại, viết thêm một lần, nhiều lắm
thì đôi lần; còn Truyện Kiều của
chúng ta vẫn được yêu thích, viết lại rất nhiều lần. Có thể kể ra những tác
phẩm chính sau đây :
1. Đào Hoa Mộng ký, với khoảng 3.000 câu thơ lục bát;
tác giả là Mộng Liên Đình, được phát hiện năm 1993, do giáo sư Trần Nghĩa dịch,
in trong Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - Tập 4 (NXB Thế giới, 1995).
2. Đào Hoa Mộng ký Diễn Ca, với 1.910 câu thơ lục bát; tác giả Hà Đạm Hiên, do Phạm Văn Phương dịch ra chữ Quốc ngữ từ bản chữ Nôm, Mạc Đình Tư xuất bản tại Hà Nội năm 1917.
3. Kiều Tân thời, với 304 câu thơ lục bát; tác giả Bạch Diện, nhà in Trung Bắc, Hà Nội 1935.
4. Kiều Bình dân học vụ với 2.050 câu thơ lục bát; tác giả Nguyễn Văn Trinh, Sở Giáo dục Hà Nội, 1958 – 1985.
5. Đoạn Trường Vô Thanh, với 3.296 câu thơ lục bát; tác giả Phạm Thiên Thư, NXB Nến Hồng, Sài Gòn 1972.
6. Đoạn Trường Nhất Thanh, với 1.028 câu thơ lục bát; tác giả Trần Thanh Vân, NXB Kiên Giang, 1990
7. Truyện Kiều đọc ngược, với toàn bộ 3.254 câu Kiều xếp dần ngược lại; tác giả Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, 2002.
8. Xung quanh vấn đề Hậu Truyện Kiều, ông Phạm Đan Quế đã bàn bạc trong quyển Lục bát Hậu Truyện Kiều (NXB Thanh Niên, 2002).
2. Đào Hoa Mộng ký Diễn Ca, với 1.910 câu thơ lục bát; tác giả Hà Đạm Hiên, do Phạm Văn Phương dịch ra chữ Quốc ngữ từ bản chữ Nôm, Mạc Đình Tư xuất bản tại Hà Nội năm 1917.
3. Kiều Tân thời, với 304 câu thơ lục bát; tác giả Bạch Diện, nhà in Trung Bắc, Hà Nội 1935.
4. Kiều Bình dân học vụ với 2.050 câu thơ lục bát; tác giả Nguyễn Văn Trinh, Sở Giáo dục Hà Nội, 1958 – 1985.
5. Đoạn Trường Vô Thanh, với 3.296 câu thơ lục bát; tác giả Phạm Thiên Thư, NXB Nến Hồng, Sài Gòn 1972.
6. Đoạn Trường Nhất Thanh, với 1.028 câu thơ lục bát; tác giả Trần Thanh Vân, NXB Kiên Giang, 1990
7. Truyện Kiều đọc ngược, với toàn bộ 3.254 câu Kiều xếp dần ngược lại; tác giả Phạm Đan Quế, NXB Thanh Niên, 2002.
8. Xung quanh vấn đề Hậu Truyện Kiều, ông Phạm Đan Quế đã bàn bạc trong quyển Lục bát Hậu Truyện Kiều (NXB Thanh Niên, 2002).
9. Đoạn trường vô ngôn của Phạm Thiên Thư. Tác phẩm gồm 27 chương,
3.296 câu thơ lục bát. Tác phẩm này đã đoạt giải Nhất văn học miền Nam năm
1971.
10. Nguyễn Viện Việt lại Truyện Kiều
Và ta tin rằng, không chỉ dừng lại ở
con số 10, Truyện Kiều trong tương
lai sẽ còn được viết tiếp, viết thêm, viết lại.
2.8.Các
hình thức tiếp nhận khác
Còn
rất nhiều hình thức tiếp nhận Truyện Kiều trong dân gian, trong các lĩnh vực
nghệ thuật khác mang đậm dấu ấn văn hóa người Việt mà ở đó, Truyện Kiều không
chỉ là phương tiện để người ta gởi gắm tình cảm, thể hiện thái độ… mà còn là
đối tượng để người ta thưởng thức. Chẳng hạn :
1. Thư pháp, tranh chữ Truyện Kiều
2. Vẽ tranh mô tả nhân vật, sự tích
Truyện Kiều
3. Cải lương, tuồng, chèo lấy cảm hứng
từ Truyện Kiều hoặc dựng lại các tích trong tác phẩm này.
4. Làm phim về Truyện Kiều
5. Dựng kịch về các câu chuyện trong
Truyện Kiều
6. Nhạc kịch về Truyện Kiều
7. Tạc tượng (điêu khắc) về các nhân vật
trong Truyện Kiều
8. Làm thơ ngâm vịnh về các nhân vật,
tình tiết trong Truyện Kiều
9. Nghiên cứu Truyện Kiều, thành lập hội
Kiều học,…
Có
thể nói, cùng với việc dịch và phát hành Truyện
Kiều ra nhiều nước trên thế giới, trong nước, các hình thức tiếp nhận
Truyện Kiều cũng hết sức phong phú, có nguồn gốc từ thời tác phẩm mới ra đời và
vẫn còn phát triển tiếp tục trong tương lai. Có một điều đáng chú ý là, các
hình thức tiếp nhận ấy mang đậm dấu ấn văn hóa dân tộc. Điều này nói lên rằng,
nhân dân ta đã yêu quý, trân trọng, nâng niu Truyện Kiều, tác phẩm được mệnh danh là “Đại Việt thiên thu tuyệt diệu từ” như thế nào.
3. Tiếp nhận Văn chiêu hồn
Trong
lịch sử văn học dân tộc, thậm chí trên thế giới, ít có những tác phẩm từ một
sáng tác văn học trở thành kinh sách của một tôn giáo nào đó. Ở Việt Nam, người
ta xem Văn chiêu hồn như là một trong những bộ kinh của đạo Phật. Và cũng từng
có ý kiến cho rằng, nước ta có một vị Quan âm tên là Thị Kính và một bộ kinh
Phật tên là Văn chiêu hồn.
Văn
chiêu hồn được tiếp nhận rộng rãi trong dân gian và phạm vi nhà chùa. Hằng năm
cứ đến rằm tháng bảy cúng cô hồn, ở nhiều ngôi chùa, Văn Chiêu hồn lại được đọc
lên. Đây là một hình thức tiếp nhận mang dấu ấn văn hóa dân tộc rất rõ nét mà
không phải tác phẩm nào cũng có được.
4. Kết luận
Có
thể nói, trong lịch sử văn học nước ta, hiếm có tác phẩm nào có sức sống lâu
bền, gần gũi với đời sống tinh thần người Việt, được người Việt yêu mến, trân
trọng như các sáng tác của Nguyễn Du. Đó là niềm vinh dự, cũng là sự đền đáp
xứng đáng cho những gì Nguyễn Du đã đau đời mà viết lên.
Từ
lúc ra đời, các sáng tác của Nguyễn Du đã vượt ra ngoài khuôn khổ chập hẹp của bộ
phận văn học quý tộc, được nhân dân đón nhận rộng rãi, trở thành món ăn tinh
thần, người bạn đường trong những lúc vui buồn, sướng khổ của người Việt ta.
Sáng
tác của Nguyễn Du được tiếp nhận với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và độc
đáo, trong đó có nhiều hình thức mang đậm dấu ấn truyền thống văn hóa dân tộc
như bình kiều, vịnh kiều, đối kiều, đố kiều, bói kiều… Điều này nói lên rằng,
các sáng tác ấy được nhân dân ta yêu mến, trân trọng và Nguyễn Du có một vị trí
quan trọng trong lịch sử văn học, trong lòng nhân dân, có được những người khóc
cùng ông, khóc cho ông như chính ông từng băn khoăn : “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.
Bài của nhóm
Trần Thị Yến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét