Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện như
một giọng văn lạ của văn học Việt Nam ngay sau thời kỳ đổi mới. Có thể nói,
Nguyễn Huy Thiệp đã trở thành một hiện tượng độc đáo của sáng tạo văn học và trở
thành đối tượng của những cuộc trao đổi tranh luận quyết liệt trong lí luận phê
bình văn học.
Với tập truyện đầu tay Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã chính
thức bước chân vào văn đàn Việt Nam. Những truyện giả cổ của ông có nhiều cách
tân trong lối viết, cách nhìn khiến người ta ngỡ ngàng: Trái tim hổ, Con thú lớn nhất, Nàng Bua, Tiệc xòe vui nhất, Sói trả
thù, Đất quên, Chiếc tù và bị bỏ quên, Sạ, Nạn dịch, Nàng sinh… Rồi những
truyện giả huyền thoại hư hư thực thực như: Tâm
hồn mẹ, Chảy đi sông ơi, Muối của rừng,
Trương Chi, Giọt máu, Con gái thủy thần,… đến những truyện giả lịch sử như Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… thì Nguyễn
Huy Thiệp đã tạo nên một trận “sóng thần” trong đời sống văn chương thời đó. Dù
khen chê thế nào thì người ta cũng phải thừa nhận tài năng nổi bật của Nguyễn
Huy Thiệp. Không thể phủ nhận đây là một trong những nhà văn xuất sắc nhất trên
văn đàn Việt Nam giai đoạn những năm cuối thế kỷ XX.
1. Nguyễn Huy Thiệp và sự thâm nhập các thể loại khác vào truyện
ngắn hiện đại
Nếu các tác phẩm
văn học thời kì trung đại, sự có mặt của lối văn tổng hợp trong cùng một tác phẩm
là biểu hiện của tính bất phân giữa văn – sử – triết. Và sự kết hợp giữa tản
văn, vận văn, biền văn với lời bình thể hiện rõ chính kiến tác giả ở cuối truyện
không chỉ làm gia tăng chất thế sự mà còn khiến cho truyện ngắn trung đại vốn
có tính chất bất biến trong cấu trúc trở nên linh hoạt, uyển chuyển, hấp dẫn
hơn thì ở truyện ngắn hiện đại, sự hợp lưu của những lối văn khác nhau lại tạo
ra sự đa âm, đa thanh trong giọng điệu của tác phẩm. Ở một phương diện nào đó,
đây là sự cách tân trong kỹ thuật tự sự, như một sự đối thoại với giọng điệu
đơn âm trong truyện ngắn truyền thống. Và như thế, truyện ngắn hiện đại là một
thể loại cộng sinh của nhiều thể loại: trong truyện ngắn có chất văn xuôi của
tiểu thuyết, chất trữ tình của thơ, chất thoại của kịch, và thậm chí có cả chất
báo chí, thời sự của phóng sự, tin tức... Lối viết phá vỡ cốt truyện đầy chủ ý
trong truyện ngắn hiện đại như: “Phiên chợ Giát” - Nguyễn Minh Châu, “Tướng về hưu”, “Trương Chi”- Nguyễn Huy Thiệp… khác hẳn cách xây dựng
những truyện ngắn “phi cốt truyện” truyền thống. Vì ở đó, người kể chuyện chủ động
phá vỡ mối dây liên hệ tuyến tính hoặc nhân quả của các sự kiện.
Sự thâm nhập
các thể loại khác vào truyện ngắn như thơ, tiểu thuyết, báo chí... cũng
là một nhân tố làm co giãn cốt truyện. Truyện ngắn có thể chứa trong
chính nó: nhật kí, chuyện kể, thơ, thư từ, tin tức, huyền thoại, điển tích, cổ
tích... Những hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo thành những tiếng
nói khác nhau trong truyện ngắn hiện đại, nới rộng cấu trúc thể loại, mở rộng
trường nhìn. Như vậy, cốt truyện truyện ngắn Việt Nam hiện đại không biến mất
mà ở từng phần cụ thể, mỗi người viết có thể sáng tạo ra nó bằng nhiều cách thức,
kiểu dạng mà mục đích cuối cùng là thể hiện ý đồ nghệ thuật một cách có hiệu quả
hơn.
Sự kết hợp hài hoà giữa chất tự sự và chất thơ vừa như một lực nam châm hút văn xuôi về phía cuộc sống, là đôi cánh nâng chất liệu tự sự vút lên những tầm cao, làm giàu thêm xúc cảm thẩm mĩ của người đọc hôm nay. Sự kết hợp giữa thơ và văn xuôi trong nhiều truyện ngắn sau 1975 khiến truyện trở về với dáng dấp thể tài biền văn của văn học trung đại. Nếu chất văn xuôi góp phần thể hiện chất liệu tự sự, là sợi dây kết nối văn học với thực tại thì thơ nâng chất liệu này lên hình thức tinh luyện, mở rộng biên độ tưởng tượng ở độc giả.
Sự kết hợp hài hoà giữa chất tự sự và chất thơ vừa như một lực nam châm hút văn xuôi về phía cuộc sống, là đôi cánh nâng chất liệu tự sự vút lên những tầm cao, làm giàu thêm xúc cảm thẩm mĩ của người đọc hôm nay. Sự kết hợp giữa thơ và văn xuôi trong nhiều truyện ngắn sau 1975 khiến truyện trở về với dáng dấp thể tài biền văn của văn học trung đại. Nếu chất văn xuôi góp phần thể hiện chất liệu tự sự, là sợi dây kết nối văn học với thực tại thì thơ nâng chất liệu này lên hình thức tinh luyện, mở rộng biên độ tưởng tượng ở độc giả.
Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn
tiêu biểu nhất cho những cách tân văn học cuối thế kỷ XX ở Việt Nam, đặc biệt
là trong truyện ngắn. Những yếu tố mới trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất
phong phú, đa dạng, thể hiện một nội lực lớn lao về tư duy nghệ thuật trong những
tìm tòi, thể nghiệm, tạo ra những tác phẩm có tính khai phá, được xem là sự
chuyển tiếp giữa hiện đại và hậu hiện đại. Đặc biệt, một khía cạnh độc đáo trong phong cách của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, sự kết hợp giữa tự luận và thơ, thơ trong văn xuôi đã
làm nên nét độc đáo trong các tác phẩm của nhà văn.
Trong số
các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp hầu hết tác giả đều đưa thơ vào trong tác
phẩm. Điều này cho thấy, việc đưa thơ vào văn xuôi có thể được xem là một đặc
trưng trong phong cách của ông. Sự kết hợp trên nhiều
phương diện giữa thơ và văn xuôi (truyện ngắn) trong cùng một tác phẩm tiềm
tàng khả năng mang lại sự đa dạng về sắc thái thẩm mỹ cho tác phẩm. Tất nhiên,
sự đa dạng ấy có thực là một giá trị hay không và giá trị đến đâu thì còn phụ
thuộc vào năng lực của chính người viết. Sự kết hợp độc đáo giữa thơ và văn
xuôi trong truyện ngắn đã giúp Nguyễn Huy Thiệp khẳng định giá trị của tác phẩm
và năng lực của chính mình.
2. Sự kết
hợp tự luận – thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
2.1. Thơ
trong truyện ngắn hiện đại
Rất nhiều truyện ngắn vào loại đặc sắc của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu, Không có
vua, Huyền thoại phố phường, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Những bài học nông thôn,
Thương nhớ đồng quê...) đều
có thơ - hoặc của người khác, hoặc của chính Nguyễn Huy Thiệp sáng tác - như là
những văn bản khác kiểu được “cài” vào văn bản văn xuôi.
Về hình thức, nhà văn đã sử dụng từ những mẩu thơ
hai câu đến cả những bài thơ dài; về nguồn thơ, có truyện ngắn nhà văn mượn thơ
của các nhà thơ khác, hoặc những truyện ngắn có thơ do chính ông sáng tác.
Ngoài ra, còn có các câu ca dân gian được nhà văn sử dụng nguyên văn hoặc được
chỉnh sửa lại theo cách của mình.
-
Thơ của các nhà thơ khác
Trong số các truyện ngắn mà Nguyễn Huy Thiệp đã sử
dụng thơ của các tác giả khác, tiêu biểu ở các truyện: Nguyễn Thị Lộ (mượn thơ
Nguyễn Trãi), các truyện Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết (mượn
thơ Nguyễn Du), Sang sông (mượn thơ Nguyễn Gia Thiều), Chút thoáng Xuân Hương (mượn
thơ Hồ Xuân Hương), Giọt máu (mượn thơ Trần Tế Xương), Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt
( mượn thơ Nguyễn Bính), Thương nhớ đồng quê (mượn thơ Bùi
Văn Ngọc), Đưa sáo sang sông (mượn thơ Đồng Đức Bốn, Nguyễn Bảo Sinh, Vũ
Toàn)…
“Một đóa đào hoa khéo tốt tươi
Tường xuân mơn mởn thấy xuân cười
Động phong ắt có tình hay nữa
Kiện tiển mùi hương dễ động người.
Động người hoa khéo tỏ tinh thần
ít bởi vì hoa, ít bởi xuân
Rỉ sứ chim xanh đừng chuốc lỗi
Bù trì đã có khí hồng quân.
Khí hồng quân hãy sá tài qua
Chớ phụ xuân này chớ phụ hoa
Hoa có ý thì xuân có ý
Đâu đâu cũng một khí dương hòa.”
Nguyễn Thị Lộ (mượn thơ của Nguyễn Trãi – Đào hoa)
“Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Kiếm sắc (mượn thơ Nguyễn Du)
“Chữ trinh đáng giá
ngàn vàng...”
“Chữ trinh còn một chút
này...”
“Chữ trinh kia cũng có
ba bảy đuờng...”
Phẩm tiết (mượn thơ Nguyễn Du)
“Chành ra ba góc da còn thiếu”
Chút thoáng Xuân Hương (mượn thơ Hồ Xuân Hương – Cái
quạt)
“Chén ứa men, lành lạnh ngón tay”
“Sòng đời thua nhẵn cả thơ ngây”
Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt ( mượn thơ Nguyễn Bính –
Trời
mưa ở Huế)
“Những một mình em uống rượu hồng…”
Hạc vừa bay vừa kêu thảng thốt ( mượn thơ Nguyễn Bính –
Xuân
tha hương)
Bài thơ “Ðám
Ma Trinh Nữ Trên Ðồng” của nhà thơ Bùi Văn Ngọc trong truyện ngắn Thương
nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp:
“Tôi đi
đưa đám ma trinh nữ trên đồng
Cái chết trắng, cái chết
trắng xoá
Những con bướm trắng,
những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những
cuộc đời trắng.
Ơi hời, tôi đưa đám ma
trinh nữ trên đồng
Tôi đào huyệt, dài một
mét tám, ngang bảy mươi phân
Tôi đào huyệt, sâu một
mét rưỡi
Ơi hời, tôi chôn vào
đây tinh thần sơ nguyên
Ơi hời, này là vật hiến
tế cho đất đai
Trinh nữ vẹn tuyền, cái
chết trắng xóa
Những con bướm trắng,
những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng, những
cuộc đời trắng
Ơi hời, tôi lót vào ngực
bài thơ trắng tinh
Bẻ một cành xanh mà che
mắt nhìn
Gió phơ phất, hồn bay
phơ phất
Hồn bay lên, trên cánh
đồng người
Tôi đi đưa đám ma trinh
nữ trên đồng
Trong ngày như thế,
trong một ngày dưng
Trong ngày như thế,
trong một ngày thường
Ơi hời, tôi đi lẫn
trong đám đông, trong số đông,trong lòng người, trong nỗi đau thương, trong thê
lương…”
Thương nhớ đồng quê (mượn thơ Bùi Văn Ngọc)…
-
Thơ của chính tác giả
Các truyện ngắn có thơ do chính Nguyễn Huy Thiệp
sáng tác, tiêu biểu là ở các truyện: Huyền thoại phố phường, Những
bài học nông thôn, Thương nhớ đồng quê, Tướng
về hưu, Chảy đi sông ơi, Thiên văn, Mưa ở Nhã Nam, Trương
Chi, Truyện tình kể trong đêm mưa, Chăn trâu cắt cỏ, Không
khóc ở California, Sống dễ lắm…
“Xổ số đặc biệt
Giải bảy trăm nghìn
Món quà phẩm hạnh
Lộc của thần linh
Số trời may mắn
Đâu đến chú mình
Đỏ đen nhân thế
Hữu sự hữu tình”
(Huyền thoại phố phường)
“Tôi nghĩ
Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự bất lực của hình thức biểu đạt
Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao tháng ngày trôi đi
Bao kiếp người trôi đi
Sự khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai nhặt cho tôi buổi sáng mai
này
Nhặt được ánh hoang vắng trong mắt em
gái tôi
Nhặt được sợi tóc bạc trên đầu mẹ
tôi
Nhặt được niềm hy vọng hão huyền
trong lòng chị dâu tôi
Và nhặt được mùi vị nghèo nàn trên
cánh đồng quê
Tôi rốt ráo bắn tỉa từng ý nghĩ
Tìm cách săn đuổi cho nó vào chuồng
Và tôi hú gọi trên cánh đồng
lòng
Tru lên như con sói hoang
Tôi gắng gặt một lượm sống
Bó buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi hú gọi trên cánh đồng người
Tôi nhặt những ánh mắt đời
Hòng dõi theo ánh mắt tôi
Dõi vào cõi ý thức
Cõi ý thức mênh mông xa vời
Dầu tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô
nghĩa mà thôi.”
(Thương nhớ đồng quê)
“Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi”
(Chảy đi sông ơi)…
“Nỗi buồn của ta ơi
Như cục đá đè nặng tim ta
Nào ai thấu
Phía xa kia là quê nhà
Tuổi trẻ mờ sương
Những ký ức mờ sương
Những ước mơ đâu cả rồi?
Những mơ ước của ta
Ta đã mơ rất say đắm
Mơ hoa lá, những bài ca,
Những tiếng đàn,
Những nụ cười, những đồng lúa chín,
Những lâu đài rực rỡ,
Ta đã mơ thấy nàng
Trong suốt và đỏ chói
Những mơ ước đâu cả rồi?
Những mơ ước của ta
Có ai về đó không?
Về quê nhà ta
Chào giúp một câu
Cho bớt nỗi đau
Chào giúp một câu
Cho bớt nỗi sầu
Những mơ ước đâu cả rồi?
Những ước mơ say đắm khôn nguôi
Nỗi buồn của ta ơi
Như cục đá đè trĩu tim ta
Ai thấu chăng tình ta?”
“Đêm nay là đêm nao
Này người tình ơi
Rồi nàng cũng thành một bà lão
Lụ khụ, đáng kính và cô đơn thôi!
Bây giờ nàng cứ cười đi
Ta đâu mếch lòng
Nàng còn trẻ tuổi.
Nàng hiểu làm sao
Những khao khát nực cười của ta
Ta vốc một nắm gió
Ném vào khoảng không kia
Nheo một bên mắt
Tay đút túi
Ta không khiến nàng bận tâm
Gió đi đâu
Dạt đến chân trời nào
Nàng biết quái gì?
Gió đi đâu?
Đến bao giờ thành bão?
Trên con thuyền này
Ta bắt quyết
Luyện phép một mình
Ai thấu lòng ta?
Nàng cứ cười đi
Và chớ có tin
Nàng có tin ai đâu
Thói của nàng là thế
Nàng được giáo dục như thế từ bé tí
Nàng chỉ tin ở bạo lựcTa biết thừa
Ai thấu lòng ta
Những khát khao của ta
Những cuồng vọng của ta
Những tín ngưỡng của ta
Với con thuyền này
Ta chèo qua số phận
Ta chèo qua thời gian
Ta chèo một mình...”
“Chàng hát:.
Tình yêu, bài ca mà Trương Chi
hát
Cất lên từ trái tim bị thương tổn
Ngọn cờ nàng phất trên ta là tình yêu
Và tiếng trống trận là nhịp tim ta
Kẻ thù của ta
Chúng sẽ bôi nhọ tên ta
Còn ta
Ta sẽ vung ra trước chúng
Lưỡi mác của tình yêu
Xuyên qua tim ta
Và qua tim nàng
Này người tình ơi
Thực ra, nàng còn rỗng tuếch và tẻ nhạt
Tâm hồn nàng có những con rắn hoài
nghi trơn tuột nằm phục
Nàng gian lận trong bài bạc
Nàng đánh giá điều thiện như cách
nàng đánh giá đồ trang sức và tài sản
Nàng ngờ vực ngọn gió
Và gieo gặt nhờ kích thích thói xấu
Mồi thính của nàng
Là quyền lợi và danh dự hão huyền
Ta đâu cần một bữa cơm
Đâu cần một manh áo
Cơm ta thiếu gì? áo ta cần chi?
Ta ở trên đất đai của tổ tiên
ta
Và quăng lưới trên dòng sông của tổ
tiên ta
Những khao khát của ta
Hướng về tuyệt đối...
Ta là Trương Chi
Ta ca ngợi tình yêu
Nở từ hạt thiện
Và bông hoa của tự nhiên
Là sự chân thực lạnh buốt…”
“Chàng hát:
Hãy ca hát tình yêu
Hỡi những trái tim lãnh cảm
Những trái tim sắt đá
Bạo lực chỉ gây oán thù
Nòi giống phải trả giá
Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Vẻ đẹp tự nhiên
Sự chân thực lạnh buốt…”
“Chàng hát:
Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Đây là thanh danh ta
Và thanh danh nàng…”
“Chàng hát:
Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Tình yêu không xúc phạm được
Bởi nó kiêu hãnh và tinh tế…”
“Chàng hát:
Ta là Trương Chi
Ta hát cho tình yêu
Tình yêu cần hy sinh
Bởi nó không khoan nhượng…”
“Chàng hát:
Sự ngu ngốc hay khôn ngoan với tình
yêu đều như nhau
Sự ràng buộc hay không ràng buộc cũng
thế…”
“Chàng hát:
Tình yêu không mất đi và không sinh
ra
Tình yêu tuyệt đối…”
“Chàng hát:
Ta là Trương Chi
Bài ca ta cât lên từ trái tim bị
thương tôn
Này người tình ơi
Xin đừng vì sự thương tổn trái tim ta
mà tổn thương trái tim nàng
Chúng ta đi qua cuộc đời bạc bẽo này,
giả dối này
Nàng cứ sống đi rồi sẽ hiểu
Những chân trời nào nàng sẽ qua...
Và những gì làm trái tim ta đau
Ghi dấu trên thanh danh ta...
Và trên cả thanh danh nàng
Có một thứ tình yêu bất tử...”
(Trương
Chi)
- Những câu thơ ca dân gian được nhà văn sử dụng lại theo cách của
mình, điển hình trong các truyện: Con
gái thủy thần, Những người thợ
xẻ…
“Cái tình chi
Mượn màu son phấn ra đi...”
(Lời hát cổ - Con gái thủy thần)
“Kéo
cưa lừa xẻ
Ông thợ
nào khỏe
Thì về
cơm vua
Ông thợ
nào thua
Thì về bú tí...”
(Hát dỗ em – Những người thợ xẻ)
Tần số xuất hiện của
thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp khiến người đọc phải ngạc nhiên. Phạm
Xuân Nguyên nhận ra: “Trong truyện anh có
thơ, nhiều thơ”, còn tác giả Đỗ Đức Hiểu viết: “Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp có nhiều bài thơ”. Mức độ dày đặc của
những bài thơ trong truyện có thể tập hợp, sắp xếp để in thành một tập thơ đầy
đặn: “ Tôi còn nghĩ: Giá có ai tập hợp tất
cả các câu thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta sẽ có một “tập” thơ
Nguyễn Huy Thiệp. Những câu thơ không vần ấy vừa gợi mở vừa đóng kín, nó bí ẩn
và tiên tri, người đọc nghĩ đến những chân trời khác”.
2.2.
Vị trí, chức năng của thơ trong truyện ngắn
- Thơ được dùng làm đề từ
Thơ được dùng làm đề từ, theo thông lệ được đặt ở
đầu truyện. Thông thường, người đọc ít chú ý đến mục này, vì tâm thế tiếp nhận
của họ là đón đợi nội dung câu chuyện. Đây là hạn chế của đa số người đọc, vì lời
đề từ có chức năng dẫn dắt, định hướng cho họ. Mặt khác, lời đề từ còn có nhiệm
vụ tạo ra sự gián cách giữa văn bản và người đọc, nhắc nhở người đọc, báo trước
cho họ rằng đây là câu chuyện được viết ra, được kể bởi tác giả và người kể
chuyện. Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, việc sử dụng thơ làm đề từ không
nhiều, nhưng nó gợi cho ta nhiều suy nghĩ về nghĩa của văn bản và tính liên văn
bản trong cấu trúc truyện. Trước hết, thơ đề từ luôn gắn với một tâm sự mà nhà
văn gửi vào truyện. Trong 10 truyện có thơ đề từ, ngoại trừ truyện Nguyễn
Thị Lộ sử dụng một ý thơ của Maiacopxki (nhà thơ Nga) : “Vấp phải đời phàm tục / Chiếc thuyền tình vỡ tan...”. Còn 9 truyện khác đều
sử dụng thơ của các nhà thơ cổ điển Việt Nam hay lời ca cổ và chúng đều thể hiện
một nỗi niềm u hoài nào đó. Mặt khác, thơ đề từ tạo nên hình thức liên kết văn
bản. Do chỗ nhà văn sử dụng lời thơ đề từ có xuất xứ từ bên ngoài, nên buộc người
đọc phải tìm hiểu và kết nối tinh thần của hai văn bản theo cách hiểu “tác phẩm
văn học như một quá trình”.
Từ những điều trên, chúng ta thấy giữa văn bản
trích (lời đề từ) và văn bản nguyên (truyện ngắn) có một sự gắn kết, mà văn bản
trích được xem như bước đệm để xâm nhập vào văn bản nguyên. Vì vậy, việc đọc lời
đề từ buộc người đọc phải tìm hiểu văn bản nguyên của nó, gắn văn bản này với
văn cảnh đã tạo thành nó. Điều này sẽ góp phần tái lập nghĩa từ việc lý giải
văn bản trước, đặt văn bản sau lên văn bản trước để thấy được sự vận động của
cuộc sống, của kinh nghiệm thẩm mỹ, kinh nghiệm văn hóa trong tính liên tục của
dân tộc và nhân loại.
- Truyện ngắn Con gái thủy thần:
“Cái tình
chi
Mượn màu son phấn ra đi…”
( Lời hát cổ )
- Truyện ngắn Giọt máu:
“Đem chuyện
trăm năm giở lại bàn”
( Trần Tế Xương ).
- Truyện ngắn Chút thoáng Xuân Hương:
“Chành ra ba góc da còn thiếu”
( Hồ Xuân Hương )
- Truyện ngắn Mưa:
“ Phong vận kì oan ngã tự cư”
( Nguyễn Du )
- Truyện ngắn Kiếm sắc:
“ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Nguyễn Du)
- Truyện ngắn Vàng lửa:
“ Rầu lòng vậy…Cầm lòng vậy…”
( Dân ca )
- Truyện ngắn Phẩm tiết:
“ Chữ trinh đáng giá ngàn vàng…”
“Chữ trinh
còn một chút này…”
“Chữ trinh
kia cũng có ba bảy đường...”
(Nguyễn Du)
- Truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ:
“Vấp phải đời
phàm tục
Chiếc thuyền tình vỡ tan”
(Từ một ý thơ của Maiacopxki).
- Truyện ngắn Trương Chi:
“ Ngày xưa
có anh Trương Chi
Người thì thậm xấu hát
thì thậm hay”
( Truyện cổ)
- Tryện ngắn Những người thợ xẻ:
“Kéo cưa lừa
xẻ
Ông thợ nào khỏe
Thì về cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú tí…”
( Hát dỗ em )
-
Thơ được “mô típ hóa” và
thơ “như những đoạn trữ tình ngoại đề”
Nhà nghiên cứu người Nga, T.N.Filimonova, ở bài viết Thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp,
NXB Văn hóa Thông tin, 2001) đã phân biệt hai cách tác giả đưa thơ vào truyện
ngắn. Cách thứ nhất, đó là khi thơ được mô típ hóa theo cốt truyện: các nhân vật hát
những bài ca, hoặc đọc những bài thơ có chức năng nhấn mạnh chính cái cần thiết
về mặt cốt truyện, trên bình diện tư tưởng, hoặc theo quan điểm tính cách nhân
vật. Cách thứ hai, đó là khi thơ xuất hiện như những đoạn trữ tình ngoại đề, hoặc
như giọng nói bên trong của nhân vật, hoặc như giọng của người kể chuyện, mà
thường các giọng này hòa quyện với nhau. Trong cả hai cách, những câu thơ, hay
những đoạn thơ, những bài thơ được đưa vào truyện đều có một giá trị riêng, và
ít nhất thì chúng cũng đã gặp nhau ở điểm: tạo nên một trong những sự khác lạ
cho truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp trên mặt bằng truyện ngắn cùng thời.
Như đã nói, thơ trong văn là chuyện không hề mới, vấn
đề là ở giá trị của việc sử dụng. Kết quả khảo sát của T.N.Filimonova trong Thơ trong văn Nguyễn
Huy Thiệp cho thấy, trong 24
truyện thì có đến 21 truyện có sử dụng thơ, nhiều trường hợp, thơ chiếm dung lượng
lớn . Hơn thế, thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp không chỉ nhiều mà còn rất đa dạng.
Ông khẳng định: “Rõ ràng, đối với Nguyễn Huy Thiệp việc sử dụng thơ - đó
không phải là chuyện ngẫu nhiên, mà là một nhu cầu đòi phải được thoát ra”.
Quả thực như vậy, trong văn học, có những bài thơ được đưa vào truyện ngắn hoàn
toàn mang tính khách thể. Thế nhưng, trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, những
câu thơ, bài thơ dù ngắn, dù dài đều nhằm trực tiếp bộc lộ ý chỉ của tác giả hoặc
khúc xạ ý chỉ của tác giả. Phải nói rằng, những câu thơ trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp đều phải “làm việc”. Trong nhiều truyện, những bài thơ đóng vai trò cực
kì quan trọng trong việc cấu thành cốt truyện, nó kết hợp một cách logic và hết
sức tự nhiên, nhuần nhuyễn với cấu tứ của truyện. Đó là trường hợp của các truyện: Chút
thoáng Xuân Hương, Trương Chi, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Huyền thoại phố phường, Chảy
đi sông ơi, Đời thế mà vui... Ở những truyện này, luận đề của truyện lại
được thể hiện một cách đầy cô đọng, súc tích trong những bài thơ, những câu ca
dao, những bài đồng dao... Ví như những câu hát trong truyện ngắn Thương
nhớ đồng quê. Khi Quyên bảo: “Cánh đồng rộng quá... anh có biết cánh đồng
bắt đầu từ đâu không?”. Đúng là một câu hỏi khó, nếu trả lời bình thường,
tác giả phải mất vài trang giấy nhưng chắc chắn sẽ không hiệu quả bằng. Nguyễn
Huy Thiệp để nhân vật Nhâm trả lời bằng một đoạn thơ, đoạn thơ bắt đầu bằng:
“Cánh đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi
Trong máu thịt tôi đã
có cánh đồng
Đứng bên ni đồng mênh
mông bát ngát
Đứng bên tê đồng bát
ngát mênh mông...”
Đặt những câu thơ vào
tình huống này, trong lúc này là hết sức đắc dụng.
Thế nhưng, giá trị hơn cả là nhiều truyện mà trong đó, những bài thơ “làm việc” như những đoạn trữ tình ngoại đề, nó thể hiện tiếng nói bên trong đầy tinh tế của nhân vật. Cũng trong Thương nhớ đồng quê, khi cái chết đến với hai cô em gái Nhâm quá oan nghiệt, Nguyễn Huy Thiệp khéo léo mượn lời bài thơ “Đám ma em gái trên đồng” để bộc lộ tâm trạng của các nhân vật. Bài thơ có đoạn:
Thế nhưng, giá trị hơn cả là nhiều truyện mà trong đó, những bài thơ “làm việc” như những đoạn trữ tình ngoại đề, nó thể hiện tiếng nói bên trong đầy tinh tế của nhân vật. Cũng trong Thương nhớ đồng quê, khi cái chết đến với hai cô em gái Nhâm quá oan nghiệt, Nguyễn Huy Thiệp khéo léo mượn lời bài thơ “Đám ma em gái trên đồng” để bộc lộ tâm trạng của các nhân vật. Bài thơ có đoạn:
“Tôi đi đưa đám ma em gái trên đồng
Cái chết trắng, cái
chết trắng xoá
Những con bướm trắng,
những bông hoa trắng
Những tâm hồn trắng,
những cuộc đời trắng”
Có thể thấy, việc sử
dụng thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp là một kỹ thuật viết rất riêng của
ông. Chính vẻ đẹp đầy bí ẩn của những truyện ngắn này làm cho Đỗ Đức Hiểu “tò
mò” đi tìm nguồn gốc: “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”. Ở đó, ông thấy “những
giọt vàng” thơ ca và triết lí. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp chứa
đựng những bí ẩn. Nó có nhiều bài thơ. Bằng sự tương tác đó, truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp đạt được tính “lợi hại” của sự kết hợp mà Kuranốp - nhà nghiên cứu
người Nga từng đề cập: trong nền văn học hôm nay, chúng ta chứng kiến sự xích lại
gần nhau giữa thơ và văn xuôi... Sự xích lại này làm cho văn xuôi
chúng ta thêm nồng ấm, run rẩy, nhiều chất hội hoạ, cô đọng hơn trong những ẩn
dụ thấm vào từng câu, từng đoạn. Việc xích lại gần với thơ làm cho văn xuôi vừa
trở nên sâu sắc hơn, vừa dễ hiểu hơn. Thứ dòng chảy ngầm này cần cho mọi truyện
ngắn. Nó giúp cho truyện có thể ngắn gọn mà vẫn súc tích.
Huyền thoại, bản thân
nó đã là những biểu tượng, những bài thơ trữ tình đẹp về “thời kì một đi
không trở lại” của nhân loại. Huyền thoại tạo nên những “giấc mơ ban
ngày” trong trí tưởng tượng bay bổng của người nghệ sĩ. Khi truyện ngắn phủ
lên lớp sương mù của huyền thoại sẽ làm cho tác phẩm tiến gần đến thơ. Trong truyện
Con gái thuỷ thần, huyền thoại
về Mẹ Cả ám ảnh nhân vật “tôi” không dứt. Truyện kết cấu bằng một cuộc đi tìm,
đi tìm Mẹ Cả, cũng là đi tìm cái đẹp, đi tìm giấc mơ tuổi thơ, đi tìm chính
mình. Thế rồi “tôi” cứ đi, cứ đi với bao câu hỏi luôn khắc khoải:
“Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì?
Bởi lẽ gì? Để tôi mượn
màu son phấn ra đi...
Con gái thủy thần!
Nàng ở đâu? Nàng ở chỗ nào? Vì cái gì?
Bởi lẽ gì? Để
tôi mượn màu son phấn ra đi...”
-
Thơ trong cấu trúc song
hành với văn xuôi
Truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp mang cảm quan của thơ ca. Một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất thơ
và truyện ngắn trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhà văn Lê Minh Hà gọi đó
là những truyện ngắn “dữ dội và hết sức thơ”. Cảm quan thơ thể hiện bàng bạc
trong tác phẩm của nhà văn: từ ngôn từ đến cấu trúc, từ huyền thoại đến những
bài thơ, từ tiêu đề đến những kết thúc.
Cảm quan ấy trước hết thể hiện ở cái tôi đầy chất
thơ. Trong truyện ngắn, Nguyễn Huy Thiệp hoàn toàn không có ý định che dấu cái
tôi của mình. Nhưng như Nguyễn Đăng Mạnh từng nói, có một cái tôi lưỡng phân
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, một cái tôi của văn xuôi và một cái tôi của
thơ. Cái tôi thứ hai giàu suy tư và bao giờ cũng mênh mang buồn “Buồn
thương, xót xa vẫn là âm hưởng bao trùm lên mọi trang viết của Nguyễn Huy Thiệp”.
Cái tôi thứ hai luôn khắc khoải đi tìm, đi tìm cái đẹp, đi tìm tình yêu, đi tìm
thiên tính nữ và tìm lại những chân trời huyền thoại trong vô thức tuổi thơ của
mỗi con người.
Cảm quan đậm chất thơ
trước thiên nhiên thể hiện thành hình ảnh trở đi trở lại đầy ấn tượng
trong Những người thợ xẻ.
Những bông hoa ban trắng luôn xuất hiện cùng những câu hỏi day dứt của nhà văn
- thi nhân này:
“Bạt ngàn là hoa
ban trắng, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng.
Này hoa ban, một
nghìn năm trước thì mày có trắng thế không?”.
Vài trang sau, tác giả
lại băn khoăn:
“Bạt ngàn là hoa ban trắng bên đường, màu
trắng đến là khắc khoải, nao lòng.
Này hoa ban, một
nghìn năm sau mày có trắng thế không?”.
Giai điệu man mác ấy
cứ lặp lại như giục giã con người hãy rũ bỏ cái “vô tâm” mà sống, vì như ông vẫn
băn khoăn “Người vô tâm nhiều như bụi đường”.
Âm hưởng thơ ca còn
được tạo ra bởi một đặc trưng rất độc đáo: thơ trong văn Nguyễn Huy Thiệp. Việc
sử dụng thơ trong văn không phải là hiện tượng lạ, đặc biệt là đối với văn học
Việt. Thơ trong cấu trúc song hành với văn xuôi là một đóng góp mới của
Nguyễn Huy Thiệp.Truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp nằm trong làn ranh giới thời
gian giữa “cũ” và “mới”. Vào thời điểm Nguyễn Huy Thiệp sáng tác, văn xuôi đã hầu
như cạn kiệt về khả năng sáng tạo cái mới. Mức độ đậm đặc của những bài thơ trong truyện ngắn
cùng “chất lượng” của nó đem đến nhiều điều mới mẻ và làm cho nhiều người đọc
nghĩ đến một chuyện khá thú vị: nếu tập hợp tất cả các bài thơ trong truyện ngắn
Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta sẽ có được cả một tập thơ hết sức đầy đặn. Thơ trong cấu trúc song hành với văn xuôi là một dạng cấy ghép về
thể loại. Trong văn bản, thơ tồn tại song song với văn xuôi và không hoàn toàn
phụ thuộc vào văn xuôi, thậm chí, nó mang tính đồng đẳng.
Trong những truyện ngắn
giàu chất thơ ấy, người viết có ấn tượng đặc biệt với Chảy đi sông ơi. Một điều thật thú vị là truyện ngắn này chứa
đựng tất cả những yếu tố làm nên chất thơ như vừa trình bày ở trên. Tác phẩm ngắn,
rất ngắn. Một truyện ngắn có sức nén và độ dư ba lớn. Ngắn đối với tác phẩm này
đúng là một phẩm chất. Chất thơ làm nên sự cô đặc, hàm súc, đến lượt nó, sự ngắn
gọn làm toả ra chất thơ. Nhan đề tác phẩm đầy chất nhạc: “Chảy đi sông
ơi”. Và quả thực, có một dòng
sông của thi ca chảy vắt qua tác phẩm. Đó là một dòng sông có linh hồn “Con
sông tựa như giật mình phút chốc sau đó lại lặng im trôi, giống như một người
hiểu biết tất cả nhưng đang mải mê suy nghĩ, chẳng cần mà cũng chẳng thèm biết
đến xung quanh chộn rộn những gì”. Con sông ấy chứa đầy thi vị khi ôm ấp
trong lòng những huyền thoại hằn sâu vào kí ức tuổi thơ “tôi”. Ở đó, tác giả gửi
gắm ước mơ đầy kì ảo về con trâu đen đem lại sức mạnh phi thường cho những người
may mắn. Con sông càng đầy tâm trạng khi trên sông luôn ngân nga một giai điệu
trầm buồn:
“Ở bên kia sông có tiếng ai hát một bài rất lạ, tiếng hát
thật buồn.
Chảy đi sông ơi
Băn khoăn làm gì?
Rồi sông đãi hết
Anh hùng còn chi?...”
Những dòng văn xuôi
tuôn dài êm dịu như tiếng thơ, tiếng nhạc dìu dặt, mênh mang. Để rồi truyện ngắn
kết thúc bằng tiếng gọi thao thiết, vang vọng chất thơ, gieo vào lòng người đọc
bao khắc khoải suy tư không dứt: “Đò ơi... ơi đò! Đò ơi! Ơi đò!”
Nhiều người cho rằng
Nguyễn Huy Thiệp lạnh lùng, vô cảm khi có những đoạn “giọng văn nén chặt, rất
cọc, vẻ như triệt tiêu mọi cảm xúc”. Nhưng may thay, những dòng văn ấy
không bị rơi xuống cái âm vực sắc lạnh của sỏi đá khi bên cạnh nó có những đoạn
vút cao, chảy tràn chất thơ. Đó chỉ có thể là chất thơ ấm nóng được thốt lên từ
tiếng lòng, tiếng lòng của “hạc vừa
bay vừa kêu thảng thốt”, của “những tiếng lòng líu la líu lo”.
Khi chất thơ kết hợp
với những tố chất thể loại khác sẽ làm cho tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp có được sự
rậm rạp trên bề mặt và chiều sâu trong việc thăm dò vào đời sống nội tâm của
con người. Bằng cách ấy, Nguyễn Huy Thiệp đã đi được rất xa, đã làm một cuộc bứt
phá trong nỗ lực cách tân văn xuôi Việt Nam hiện đại. Với chất thơ hòa trộn
song hành trong truyện ngắn, sự kết hợp hài hòa giữa tự luận và thơ một cách
nhuần nhuyễn, thậm chí có thể nói nó mang tính đồng đẳng dường như khiến người
đọc khó có thể nhận ra đây là sự kết hợp hoàn hảo thơ trong văn xuôi hay chính
văn xuôi trong thơ. Tính chất ấy càng làm tăng thêm giá
trị của tác phẩm và tính đa thanh trong phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp.
3.
Kết luận
Việc để cho thơ xâm nhập ồ ạt vào văn xuôi, từ lời đề từ, lời hát
của nhân vật đến những bài thơ được cấy ghép song hành vào trong truyện, đối với
Nguyễn Huy Thiệp là một sự giải phóng hình thức thể loại ra khỏi những khung
hình, những quan niệm truyền thống, là những cái đang giết chết nghệ thuật thời
bấy giờ.
Thơ trong văn xuôi, vấn đề không mới nhưng cũng
chưa bao giờ cũ, nó vẫn luôn chứa đựng những khả năng mở rộng hình thức diễn đạt
của văn học. Trong thời điểm khủng hoảng truyện ngắn tự sự ở Việt Nam những năm
sau 1975, thì chính Nguyễn Huy Thiệp, chứ không phải ai khác, đã làm nên sự biến
động trong văn học Việt Nam, để từ đó tạo đà cho những thế hệ nhà văn tiếp theo
tự tin và vững vàng trong sáng tạo. Thơ trong văn xuôi, hình thức diễn đạt này,
tùy theo những mức độ khác nhau, chúng ta tiếp tục bắt gặp trong văn xuôi của
những nhà văn thế hệ thứ kế tiếp, thế hệ mạnh bạo hơn trong việc chuyển đổi văn
học Việt Nam từ hiện đại đến hậu hiện đại tiêu biểu như Tạ Duy Anh, Nguyễn Việt
Hà, Nguyễn Bình Phương…
Trần Thị Ngọc Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét