Cuộc đời
con người xét đến cùng là một chuỗi dài giữa ở và đi, giữa hội ngộ và chia ly,
giữa mơ và thực. Có câu hát ca rằng: Tình
tựa chiêm bao, nay thuyền xa bến đỗ, chia ly nào hay, ai biết được tình đời. Chuyện
tình hợp tan như sóng xô dạt bờ, xin người thương hãy thương những kỷ niệm
trong ta...(Thuyền xa bến đỗ -
Huy Phương). Thuyền thì bao
giờ cũng động mà bến thì cứ mãi đứng
yên, thuyền cứ mãi phiêu du còn bến thì mỏi mòn chờ đợi. Đó là hai hình
tượng không quá xa lạ đối với mỗi người dân Việt Nam.
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Hay
Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
Thuyền ai lơ lửng bên sông
Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
(Ca dao Việt Nam)
Không chỉ có ca dao mà đi dọc nền văn học Việt, ta mới thấy
hình ảnh bến trở thành một hình tượng
tiêu biểu để chỉ về người ở lại gắn với sự chờ đợi vô vọng. Đó là một nơi để
nhớ, để về.
Chốn Hàm Dương
chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang .
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng …
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang .
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng …
(Đoàn Thị Điểm)
Lấy
tích từ câu chuyện tình Ý Nương và Lý Sinh đời Hậu Chu, bến Tiêu Tương trở thành một hình tượng nổi tiếng về sự chia ly
trong tình yêu. Thúy Kiều cũng đã từng đau khổ, tương tư vì Sông Tương một giải nông sờ / Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia (Truyện Kiều). Đó là nơi
đón đợi, mừng vui và cũng là nơi tiễn biệt đầy nhung nhớ.
Tưởng chừng cái bến đầy giản dị ấy thật quá đỗi thân quen, thế mà với Nguyễn Minh
Châu thì thật xa lạ quá! Truyện Bến quê lại cho ta cái nhìn mới mẻ,
đầy triết lí về cuộc đời: Con người ta trên đường đời thật khó tránh khỏi những
cái điều vòng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên
kia sông đâu? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân
trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông
Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ và cái điều riêng anh khám phá
thấy giống như một niềm say mê pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ không bao
giờ giải thích hết. Vậy thì nói đến bến có bao giờ là cũ vì rằng có mấy ai
đã từng đặt chân lên tất cả các bến trên
dải đất hình chữ S này và hiểu hết về con người nơi ấy đâu?
Cũng như khi
nhắc đến cái tên Bến My Lăng, người ta vẫn ngỡ ngàng chao ôi cái tên nghe sao mà
huyền thoại đến thế! Có biết rằng cái tên ấy cũng rất đỗi giản đơn, gắn với một
vùng đất an bình và những con người chân thật mà rất đượm tình.
Bến My Lăng nằm
không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông
lái chẳng buông câu.
Trăng thì đầy rơi
vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để
gió lén mơn râu.
Ông không muốn
rung người ra tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm
bến trăng cao.
Vì đìu hiu, đìu
hiu, trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời
thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền,
những lá vàng quá lạnh,
Tơ vương trời,
nhưng chỉ giải trăng… trăng.
Chiều ngui ngút
dài trôi về nẻo quạnh,
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng.
Nhưng đêm kia đến
một chàng kỵ mã,
Nhúng đầy trăng
màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi
đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi
khuất lối chưa đi.
Ông lão vẫn say
trăng, đầu gối sách,
Để thuyền hồn bơi
khỏi bến My Lăng
Tiếng gọi đò, gọi
đò như oán trách
Gọi đò thôi run rẩy
ngành trăng.
Bến My Lăng còn lạnh,
bến My Lăng,
Ông lái buồn đợi
khách suốt bao trăng…
(Bến My Lăng - Yến Lan)
Nói đến thơ Yến Lan là dường như người người nghĩ ngay đến
bài thơ Bến My Lăng và ngược lại khi nhắc đến cái địa danh rất thơ ấy không thể nào không nhớ đến một hồn thơ rất
tình_Yến Lan . Bài thơ được tác giả thực hiện vào thuở 16, 17 tuổi (khoảng năm
1933). Hoài Thanh đã từng phê là… có cái không khí lạ nhưng nhẹ nhàng dễ
khiến người ta thích….
BẾN MY LĂNG_ THỰC VÀ THƠ
Các nhà địa chí dù có đi dọc
sông Côn và hỏi khắp Bình Định cũng không thể tìm ra một địa danh nào có tên
Bến My Lăng. Bến My Lăng là cái tên huyền ảo đầy vang bóng trên thi đàn mà
người ta không thể quên mỗi khi nhắc đến Yến Lan. Chính thi sĩ đã sáng tạo ra
một bến sông phi thời gian, phi không gian. Nó là bến đợi ai và ai đợi cũng
không rõ nữa. Dù vậy, cũng giống như những hình ảnh Linh Sơn của Cao Hành
Kiện, lá Diêu Bông, bến Cô Mưa trong thơ Hoàng Cầm, , bến My Lăng của Yến Lan
cũng làm người ta tốn khá nhiều giấy mực. Bến My Lăng là một địa danh hay chỉ
là một biểu tượng thi ca?
Từ một bến sông có thật…
Yến Lan (1916 - 1998) tên thật là Lâm Thanh Lang, quê tại
làng An Ngãi, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Mồ côi mẹ năm 6 tuổi, Yến Lan
sống bằng nghề dạy học tư và viết văn. ông sáng tác thơ từ sớm và cùng với
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Quách Tấn hợp thành nhóm Bàn thành tứ hữu (bốn
người bạn thơ đất Bình Định) nổi tiếng trên thi đàn lúc đó. Những năm ấy, văn
đàn Thơ mới rộ lên hình ảnh Bến My Lăng
trong thơ Yến Lan.
Theo nhiều nguồn tài liệu, đó chính là bến đò Trường Thi
trên sông Cửa Tiền. Chính Yến Lan cũng nhiều lần giải thích rằng nó bắt nguồn
từ một bến đò thật, bến Trường Thi, cách thị trấn Bình Định nơi ông ở khoảng
mấy dặm đường. Cửa Tiền nằm ở phía Tây Nam thành Bình Định. Gọi là Cửa Tiền
bởi vì cửa chính của thành Bình Định nằm ở mặt này. Con sông chảy trước mặt
Cửa Tiền cũng mang luôn cái tên Cửa Tiền, có người gọi là sông Tân An một chi
lưu của sông Côn đổ ra đầm Thị Nại. Bên kia sông là xã Nhơn Hòa, bên này là
xã Nhơn Hưng, đều thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bến đò Trường Thi, nằm
ở phía Cửa Tiền, hình thành vào mùa nước nổi, từ tháng chín cho đến tháng
chạp âm lịch. Sau đó, đò được dời đoạn sông sâu hơn, người lái đò cũng chuyển
nghề khác chờ mùa nước lớn năm sau. Chính cậu ruột Yến Lan cũng là một người
lái đò. Bên bờ có một khoảnh đất trống thuở xưa là trường thi hương, cũng là
nơi gặp gỡ của các chí sĩ yêu nước. Đến thời Pháp, trường bị bỏ hoang và việc
thi cử cũng bị bãi bỏ. Vì bến đò nằm gần đó nên gọi là bến Trường Thi như một
niềm hoài niệm. Trường Thi đẹp mà buồn đến nao lòng. Cha Yến Lan đã bao lần
vượt qua bến sông, lần theo câu hát để đến với một thôn nữ dệt lụa, sau này
chính là mẹ ông. Mối tơ duyên đầy thi vị ấy đã cho chúng ta một thi sĩ ngay
từ thuở lọt lòng:
Quê ngoại bên kia bãi cát vàng
Mẹ tôi về lỡ chuyến đò ngang
Cơn đau trở dạ không giường chiếu
Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng.
(Bệnh Trăng)
Còn cái tên Bến My Lăng? Đây
chỉ là một hồi ức được biến hóa. Thời điểm Bến My Lăng ra đời cũng
là thời điểm nhà thơ có người yêu tên là Lan (tình yêu đã đi đến kết quả
thành hôn nhân) thì chữ Mê Lan đến My Lăng cũng không phải là xa. Xét theo sự
tương ứng của âm Việt và Hán Việt thì có sự trùng hợp: Âm Việt là Ê thì chữ
Hán là I, rõ nhất là trong chữ Nôm, chữ Mê với My là một, cũng như chữ Lan
hay Lăng là một.
… đến một bến thơ
Những năm cuối đời, ông vẫn còn thường nhắc đến bến My
Lăng niềm mong mỏi được đắm mình trong bến sông xưa:
Thăm quê về lại bến trăng xưa
Còn tưởng đêm nay đứng gọi đò
Chưa kịp nhớ ra lòng có hẹn
Chèo ai cập bến đã vang khua.
(Nhớ bến My Lăng)
Ông thừa nhận rằng bài thơ Bến My Lăng của mình ra
đời trong lúc xuất thần, mang ấn tượng tiếng gọi đò thuở bé: Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách/ Gọi đò
thôi run rẩy cả ngàn trăng. Cũng có khi Yến Lan nhập hồn vào ông lái đò ở
bến sông u uẩn: Ông lão vẫn say trăng
nằm gối sách/ Để thuyền hồn rời khỏi Bến My Lăng. Ông lái đò cũng là một
nghệ sĩ đích thực biết đọc sách, rồi buông câu, uống rượu, có khi thổi sáo
nhưng vẫn cô đơn trên cái bến sông đìu hiu mênh mông đến rợn ngợp. Trên bến
sông ấy, xuất hiện ánh trăng ma quái, lúc ẩn lúc hiện với muôn hình vạn
trạng. Bến sông là biểu tượng cho bến bờ hạnh phúc, con đò là giấc mơ về sự
ra đi, đi để tìm cho mình những chân trời mới, gặp những con người mới. Nhưng
giấc mơ của người lái đò chỉ còn biết thổ lộ với trăng mà thôi! Thế nhưng, trên bến sông huyền thoại ấy, Yến Lan là
ông lái đò đã đưa thơ của mình cập bến mà neo vào lòng độc giả sau này.
Như vậy, Bến My Lăng vừa là không gian thực
vừa là không gian tâm tưởng mang màu sắc huyền thoại Tìm hết tất cả những bến
sông ở Bình Định và khắp đất nước mình, khó có cái bến sông trăng lạnh buốt
nào mà lại mê hồn đến như thế như trong thơ của Yến Lan. Chàng thi sĩ của
trường thơ Loạn đã ra đi cùng bạn hữu nhưng cái bến My Lăng do ông sáng tạo ra thì vẫn cứ ám ảnh người đọc cho
đến tận hôm nay. Nhà thơ Thanh Thảo từng nói: Bến My Lăng- hình như ở trong mơ, dưới ánh trăng bạc xám, ám ảnh trên
Thành cổ Đồ Bàn. Có thể là một bến sông của một cô gái người Chàm, của một
ông lái đò không tên, không tuổi, quên quá khứ, không nghĩ tới tương lai, ông
lái đò của thời khắc hiện tại, của dòng sông trôi chảy. Bến My Lăng ở đâu? Có
lẽ bến sông ấy chỉ có trong thơ Yến Lan, trong những tầng sâu nhớ quên của
nhà thơ. Đừng giải thích, đừng định vị.
|
BẾN MY LĂNG - TRĂNG VÀ
TÌNH
Cũng như bến, trăng là một hình
ảnh quen thuộc trong văn học và đặc biệt trở thành nàng thơ của hầu hết các thi
sĩ. Trăng là tri kỷ, tri âm, có lúc
sẻ chia bầu bạn và cũng có lúc trách móc giận hờn, có lúc sâu sắc mặn mà và
cũng lắm khi vô tình hờ hững. Trăng
là bạn nhưng có khi trăng chỉ là
trăng thôi! Người ta nhớ mãi hình ảnh trăng tuyệt đẹp trong câu thơ của Bàng Bá
Lân:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Trăng
đẹp hay cô thôn nữ đẹp? Có lẽ trong con mắt si tình kia, trăng cứ mãi đầy mà cô gái cứ mãi vô tư, anh cứ mãi yêu mà nàng cứ mãi
giả vờ không biết. Trăng giúp anh gởi
tình và cũng là chứng nhân duy nhất cho tấm lòng anh.
Yến
Lan khi viết Bến My Lăng cũng ướp trăng trong từng câu chữ. Người đọc có thể
dễ dàng nhận thấy ở mỗi khổ thơ đều có sự hiện hữu của trăng: trăng thì đầy, rơi vàng…, bến trăng cao, trăng…trăng, nhúng đầy trăng,
trăng vàng, say trăng, ngành trăng, suốt bao trăng. Mỗi lần hiện diện là mỗi
lần trăng rất đẹp và rất mới. Trăng
cùng với ông lái đò và chàng kỵ mã đã làm nên một bức tranh thơ
rất sinh động. Trăng thì đứng yên mà
kỳ thực như đang làm trò ảo thuật qua cái nhìn của hai nhân vật một già, một
trẻ.
Tất cả không gian đều rất tĩnh mịch, chỉ
có trăng là căng tràn, đầy sức sống. Trăng dịu dàng rơi vàng trên mặt sách, khơi gợi ở ông lái đò hưởng thụ cái thú tao
nho. Thế nhưng ô kìa: Ông lái buồn để gió
lén mơn râu. Lúc này, chỉ có trăng mới đánh thức cái động trong con người
kia khi mà cảnh vật xung quanh đang rất tĩnh. Đó chẳng phải là người bạn tâm
giao hay sao? Nào có phải ông lão hững hờ ánh trăng đầy mời gọi, chỉ là vì mãi
chờ mà hồn vượt cả bến trăng cao.
Hình ảnh trở nên rộng lớn vô cùng. Và chính vì thế, khi ông quay về với con đò
nhỏ đìu hiu, với chiếc lá vàng quá lạnh thì nhìn trăng mà chỉ thấy cô đơn: Tìm mặt trời, những chỉ giải trăng…trăng.
Có vẻ như đã lâu lắm rồi, chỉ có trăng mới gọi đò trong những chuyến đêm. Đêm lạnh
mà trăng cũng lạnh hỏi sao không khiến lòng người ta thấy cô liêu.
Thế rồi chàng đến, chàng kỵ mã đẹp rạng
người bởi sắc áo ngập màu trăng. Cả không gian như bừng tỉnh bới tiếng gọi hối
hả của chàng. Chàng cũng yêu trăng, chàng sợ nếu không kịp chuyến đò, trăng vàng sẽ rơi mất mà chàng vẫn chưa
đi. Chàng gọi hoài, oán trách mà thiết tha, tiếng gọi như xé lòng nàng trăng
tri kỉ: gọi đò thôi run rẩy cả ngành
trăng.
Cuộc sống có những nghịch lí vô thường
mà con người không thể nào nắm bắt hết được. Ông lái thì buồn đợi khách suốt bao trăng, ngày qua tháng lại chỉ có trăng và
trăng. Nhưng khi có người gọi đò thì ông cứ mãi say trăng. Trăng ru ngủ con người hay lòng người không dám tỉnh?
Chàng kỵ mã đã đi rồi, người lái đò vẫn đó, chỉ có trăng là tiễn đưa chàng và
ru hời ông lão. Cuộc sống cứ an bình như thế có phải là tốt không khi nghĩ rằng
không có hội ngộ thì sẽ không có chia ly. Họ sợ chia ly? Thế nhưng con người cần
lắm những phút giây hội ngộ để mà hạnh phúc dù chỉ là trong một giây phút ngắn
ngủi như Xuân Diệu đã từng: Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.(Giục
giã - Xuân Diệu).
Đó là tâm tình chung của các nhà Thơ Mới
lúc bấy giờ và Yến Lan cũng không đi xa những khát khao ấy. Chỉ có trăng lúc nào cũng lung linh như thấu hiểu.
Trăng mê hoặc con người và đưa gót những
chàng thi sĩ vào chốn mộng mơ. Chính vì thế nói Bến My Lăng là Bến Trăng
cũng không có gì là quá. Huyền hoặc, mê hồn là trăng trên bến My Lăng.
BẾN
MY LĂNG - TÌNH QUÊ VÀ TÌNH NGƯỜI
Khi giải thích về sự tích bến My
lăng, nhà thơ Yến Lan đã từng nói: vốn trong lòng của những ai từ tuổi
thơ đã có diễm phúc được sống bên cạnh một dòng sông... Những ai đã có lần đứng
lại đợi một chuyến đò ngang... và nhất là những ai có nỗi hy vọng lớn lao phải
chờ đợi... để rồi suốt đời chờ đợi... đợi chờ.Câu nói xuất phát từ một hoàn cảnh tuổi thơ
đầy kỉ niệm. Sinh ra và lớn lên ở một vùng quê với cánh đồng bát ngát và bến
sông chia thành bên lở bên bồi. Nơi đó có người mẹ hiền nhưng lại sớm chia xa. Mồ côi mẹ, sống với bà kế mẫu, dù bà là người độ lượng
khoan dung đến đâu cũng không thể nào xóa nhòa nổi lòng thương nhớ mẹ. Đó là
chưa kể tâm trạng muôn thuở của con người, càng trưởng thành càng có hoài niệm
về tuổi thơ. Kí ức bao giờ cũng
đẹp và mỗi
người chúng ta ai cũng cất giữ một miền nhớ, chỉ cần có một cơ hội nhỏ thì tất
cả lại ùa về, trong trẻo, ngây thơ. Hiện tượng quay về lòng mẹ là một nhu cầu
bản năng thấm đượm mọi nẻo đường đời và xâm nhập trong mọi hành động. Chính niềm
thương nhớ khôn nguôi về tình mẫu tử, tình cha, tình cậu, tình chị và với cả
hai cô bạn thân tình của Yến Lan đã kết đọng và chợt vỡ òa hóa ra cảnh sông
nước thơ mộng.
Người ta kể lại rằng, khi mẹ mất, chú bé Yến Lan đi cùng
người láng giềng đưa tin về quê ngoại. Đến đoạn đường qua Gò Tập, nơi bị đồn
đại rất nhiều ma đưa võng, Yến Lan sợ đến cuống chân. Người láng giềng cất
tiếng gọi đò khắc khoải. ông cậu của Yến Lan nằm ngủ trong thuyền, giật mình,
hớt hải chống đò sang. Ấn tượng về tiếng gọi đò não ruột trong đêm trăng lạnh
lẽo ấy đã ám ảnh Yến Lan suốt một đời. Sau này, có
lần tác giả tâm sự: … Đêm mẹ tôi mất, cha
tôi đã nhờ người hàng xóm dẫn tôi ra bến đò để gọi cậu tôi qua giúp việc chôn cất.
Nhà cậu và chiếc đò thì gác mái bên kia sông; chúng tôi ở bên này gọi mãi, gọi
mãi, gọi trong một tâm trạng xót xa, bồn chồn, hãi hùng nữa…. Hình ảnh, âm
thanh gọi đò đó hẳn đã ăn sâu, trở thành nỗi ám ảnh trong đáy lòng về sự chia
ly vĩnh viễn, về niềm khát khao hội ngộ để rồi sau mười năm sau nhà thơ mới có
thể trải lòng mình trong cái tên Bến My Lăng.
N.T.T.N
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét