Thứ Ba, 20 tháng 1, 2015

TRIẾT LÍ TÀI MỆNH TƯƠNG ĐỐ TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU

MỞ ĐẦU

Nguyễn Du được các thế hệ sau nhắc đến với những sáng tác bất hủ, ông sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Với chữ Hán chúng ta biết đến Thanh Hiên thi tập (khoảng 78 bài) Bắc hành tạp lục, Nam trung tạp ngâm, với chữ Nôm là Truyện Kiều, Văn chiêu hồn…

Người Trung Quốc vẫn nhắc nhỏm nhau “Bất học thi vô dĩ ngôn” để gìn giữ vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân tộc, còn với người Việt chúng ta thì không biết đến Kiều thì như chưa biết đến tiếng Việt vậy. Nói như nhà thơ Chế Lan Viên:

"Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn"
Nguyễn Du đã từng trở trăn “ bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” đã hơn hai thế kỉ trôi qua, Truyện Kiều như một tháp ngà tồn tại trong lòng văn hóa dân tộc, như một giọt lệ cho đời mà Tố Như để lại cho đời. Truyện Kiều chính là minh chứng cho nét đẹp của dân tộc ta, thế nên Truyện Kiều còn thì tiếng Việt còn”.
Đã bao giấy mực của các học giả đổ ra để mong có thể khám phá được hết cái hay cái đẹp của tác phẩm này, nhưng quả như … nói “càng đi sâu càng lạnh”, càng đi sâu mới càng thấy được vẻ đẹp ẩn tàng trong mỗi hình ảnh, mỗi câu chữ của Nguyễn. Từ khía cạnh tư tưởng văn hóa, thông qua việc khảo sát ngữ liệu từ tác phẩm chúng tôi muốn soi chiếu để khám phá, giải thích được phần nào nét đẹp của hồn dân tộc trong tác phẩm trứ danh này. Tài năng của Nguyễn Du chính là sự nhào nặn của thời đại, của tài năng thiên bẩm.
NỘI DUNG
1. Cơ sở hình thành tư tưởng “Tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận”
1.1. Điều kiện lịch sử – xã hội
Nguyễn Du sinh ra, sống và trưởng thành khi giai cấp phong kiến đã bắt đầu bước dần đến con đường khủng hoảng và suy tàn cực độ. Biểu hiện của sự suy tàn này không chỉ ở trên diện rộng với sự suy yếu vai trò thống trị của giai cấp phong kiến. Bối cảnh xã hội với nhiều biến động dữ dội rồi nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, lớn lao trên chính là cơ sở sâu xa làm xuất hiện những quan niệm mới về nhân sinh về xã hội và con ng­ười trong đó có trào l­ưu nhân đạo chủ nghĩa với tư­ t­ưởng chống đối các thế lực phong kiến chà đạp con ng­ười với sự đề cao con ng­ười, đề cao cuộc sống trần tục và đòi giải phóng tình cảm con ng­ười .
Đó là khoảng thời gian vừa đau thương, nhưng cũng vừa quật khởi, vừa là bi kịch nhưng cũng vừa là bản anh hùng ca. Tuy nhiên màu sắc chung cho cả giai đoạn này vẫn là một màu tối đen, xám xịt. Không chỉ có hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra trên khắp đất nước mà còn biểu hiện ngay trong chính bản thân dòng họ Nguyễn – Tiên Điền. Từ ông tổ đời thứ 7 dòng họ này, tuy vẫn có nhiều những bậc anh tài nổi tiếng nhưng gia huynh và uy lực đã suy sút, khi Thượng thư Nguyễn Khản thất thế cũng là khi kết thúc một thời kì thịnh vượng của dòng họ Nguyễn – Tiên Điền. Năm 1789, khi Quang Trung tiến quân ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh, Lê Chiêu Thống cùng đám quan lại tùy tùng bỏ nước chạy theo tàn quân của bọn xâm lược. Ba anh em cùng mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Đề, Nguyễn Du, Nguyễn Ức chạy theo Lê Chiêu Thống không kịp. Nguyễn Du từ giã Nguyễn Đề, Nguyễn Ức trở về quê vợ ở xã Hải An, huyện Quỳnh Cối, tỉnh Thái Bình. Nguyễn Du đã thực sự bị đẩy ra cuộc đời gió bão và phải đến 10 năm sau, ông mới thoát khỏi cuộc đời ấy. Trải qua10 năm gió bụi của cuộc đời, Nguyễn Du đã lưu lạc qua nhiều nơi: Thái Bình - quê vợ, về Hà Tĩnh - quê cha, xuôi vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng chưa kịp ra khỏi địa phận Nghệ An đã bị giam giữ.
Điều này đã giúp Nguyễn Du có thêm vốn sống và bổ sung vốn văn hóa, gia tăng tính hiện thực trong các sáng tác của ông. Có thể thấy con người Nguyễn là một sự tích hợp hoàn hảo để tạo nên một lối tư duy nghệ thuật sắc sảo và tinh tế. Không chỉ trong đề tài, tư tưởng sáng tác, thi liệu sáng tác, mà ngay trong cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, lối tầm chương trích cú cũng mang đậm dấu ấn Nguyễn Du. Nên trong thơ ông, ta không chỉ thấy những giá trị về mặt ngữ nghĩa mà giá trị thẩm mĩ cũng nổi bật tạo ra chất nhạc trong những bức hoạ ngôn từ của thi nhân, thế nên nếu nói thơ Nguyễn là sự hài hoà của thi – nhạc – hoạ quả không ngoa chút nào.
Thơ chữ Hán, Văn chiêu hồn, Truyện Kiều là sự đúc kết tinh hoa văn hoá dân gian, và văn hoá bác học, là sự hoà quyện giữ bác học và đời thường, giữa cái tinh tế và bình dân.
1.2. Cuộc đời Nguyễn Du
Cuộc đời Nguyễn Du nổi bật hơn hết vẫn là những trang buồn của một con người tài hoa lại có thừa bất hạnh.
Ông đã hòa vào dòng người nghèo khổ, đáng thương, chỉ vì thấp cổ bé họng mà phải gánh chịu biết bao nhiêu điều bất công, ngang trái của cuộc đời.
Ông thấu hiểu được nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, khi mà giá trị của họ chỉ đáng giá như món đồ chơi trong tay người đàn ông. Chứng kiến nhiều hơn những cảnh con người càng tài hoa, nhan sắc thì càng truân chuyên, bất hạnh.
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên,  biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, thân sinh ông là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm (1708-1775)tự Hy Di, tôn huý Thiều, hiệu Nghi Hiên, biệt hiệu Hồng Ngư cư sĩ, làm quan Tham tụng dưới triều vua Lê chúa Trịnh. Thân mẫu Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc. Con người Nguyễn Du tài hoa là thế, tinh tế là thế, chất tài hoa trong con người Nguyễn vốn là sự hòa trộn của ba mạch nguồn tinh hoa: xứ Nghệ, Thăng Long và Kinh Bắc.
Không những thế Nguyễn Du còn được sinh ra và lớn lên trong một dòng họ vốn có truyền thống về học thuật. Dòng họ Nguyễn - Tiên Điền - 先田đến nay vẫn nổi danh với đôi câu ca lưu truyền:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”.
Ông nội Nguyễn Du, cụ Nguyễn Quýnh - một Nho chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm - vừa là sử gia vừa là nhà thơ. Nguyễn Khản - người anh cả của Nguyễn Du, là một người giỏi thơ Nôm, thường làm thơ đối đáp với chúa Trịnh Sâm. Nguyễn Khản cũng chính là một trong những người dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt… Dòng họ Nguyễn –Tiên Điền còn đóng vai trò trụ cột trong những tác giả, tác phẩm tiêu biểu như: Nam Dương lập yếu kinh nguyên của Nguyễn Nhiệm, Đại hiểu chân kinh, Từ Âu chân thuyền, Dịch kinh huyết nghị của Nguyễn Quỳnh;  Xuân trung liên vịnh, Xuân đình tập vinh, Việt sử bị lãm, Lạng Sơn thành đô chí, Cổ lễ nhạc chương thi văn tập, Khổng Tử mộng Chu Công của Nguyễn Nghiễm…
Từ nhỏ ông đã được tiếp xúc với môi trường văn chương cử tử của của Khổng sân đã tạo cho ông cá tính văn chương riêng. Hơn thế nữa, việc tiếp cận với những thành tựu xuất sắc của thời đại đã tạo điều kiện cho Nguyễn bộ lộ hết tài năng của mình. Ví như “Hoa tiên truyện” của Nguyễn Huy Tự ảnh hưởng đến Truyện Kiều khá sâu đậm. Nguyễn Du đã may mắn thừa hưởng từ người mẹ của mình nguồn ca dao dân ca, chất trữ tình đằm thắm dịu dàng… Như vậy, ngoài việc tiếp xúc với văn học bác học ngay từ sớm, tâm hồn Nguyễn Du đã được nuôi dưỡng trong mạch nguồn văn hóa –văn học dân gian
Sự thống nhất của bản thể được tạo ra từ những mâu thuẫn và trong huyết quản của con người Nguyễn hai nguồn suối tâm hồn tưởng chừng đối lập nhau: văn chương bác học cao sang, cầu kì và văn học bình dân gần gũi, giản dị. Chính điều này đã giúp Nguyễn Du chắt lấy cái tinh hoa phong phú, giàu sức gợi của người bình dân cùng thâm ý sâu sắc của “ý tại ngôn ngoại, kết cấu vững chắc của tác phẩm văn chương bác học để hình thành nên những tuyệt tác lưu danh đời đời.




1.3. Tư tưởng Nho, Phật, Lão – Trang
1.3.1. Nho giáo
Đạo Trung dung : là sự quân bình, cái gì cũng không nên quá mức và cũng không nên quá bất cập, phải nằm ở giữa hai thái cực đó, chỉ cần thiên lệch về bên nào thì nhất định ẩn chứa trong đó là điều họa, là cái mầm không tốt vậy.
Luật Âm dương dung hợp (bỉ sắc tư phong), trong sự vận hành, sự kết hợp của âm và dương, nếu có cái này thì nhất định sẽ mất cái khác. Có càng nhiều thì mất cũng càng nhiều.
Nho giáo có đề thuyết thiên mệnh. Thiên mệnh là mệnh trời. Con người hành động phải tuân theo mệnh trời. Thầy Mạnh Tử dạy: “Vạn sự bất do nhân kế hiệu, nhất sinh đô thị mệnh an bài”, mọi chuyện không do người toan tính đời người đều do số mệnh an bài. Thiên mệnh của Nho gia là cái gì đó rất huyền bí, người quân tử phải biết “uý thiên mệnh”. Sợ mệnh trời vì “Trời là lí nhưng cái lí linh diệu vô cùng, làm chúa tể của cả muôn vật và ở chỗ nào cũng có. Cho nên, người ta phải kính Trời và sợ Trời”. Thuyết Thiên mệnh, con người ta sống thì phải biết mệnh trời mà làm theo. Trong cực khổ mà ta biết đó là mệnh trời khó tránh, vui vẻ chấp nhận thử thách thì ta càng đỡ khổ, chứ nếu ta không tri mệnh, không bằng lòng chấp nhận thì nỗi khổ càng vây lấy ta nhiều hơn.
1.3.2. Phật giáo
Ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo, Nguyễn Du đã vận dụng vào luật nhân quả, mà hạt nhân của nó là thuyết về Nghiệp
Phật nói: con người ta gieo nhân nào thì gặt quả đó, có thể thấy ngay cái quả do nhân mình gieo trong kiếp này, nhưng cũng có khi là kiếp khác. Nghiệp là kết quả của hành động chúng ta lập đi lập lại. Nếu hành động đúng, tốt thì nghiệp báo ta sẽ tốt còn nếu ta làm việc xấu, mắc nợ cuộc đời thì nghiệp báo bắt ta phải trả.
Khi vận dụng luật Nhân quả, vận dụng Nghiệp vào để giải thích, ta sẽ hiểu rằng, con người nếu tiền kiếp đã gieo quả xấu, làm việc ác thì kiếp này cũng phải trả nợ vậy.
1.3.3. Lão – Trang
Sự tồn tại đồng thời của các cặp mâu thuẫn, trái ngược nhau, nếu như đã có cái tốt đẹp thì nhất định sẽ có phần xấu, ác.
Quy luật phản phục : phúc là nơi nương tựa của họ và ngược lại
Lão tử, người khởi lập phái Đạo gia cũng là người đầu tiên đưa ra cái luật bù trừ của tạo hoá:
Đạo trời phải chăng cũng như phép giương cung ngắm bắn, nếu cao quá thì lại hạ thấp xuống, nếu thấp quá thì lại nâng cao lên, nếu kéo dây cung căng quá thì giảm bớt đi, nếu kéo dây cung chưa đủ thì tăng lên. Đạo trời rút bớt chỗ thừa để bù vào chỗ thiếu…
(Thiên chi đạo, kì do trương cung tư? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi, hữu dư giả tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo, tổn hữu dư nhi bổ bất túc… –Đạo đức kinh, Chương 47).
Mặt khác, phần nổi nhất trong tư tưởng của Lão Tử là những nguyên tắc quan trọng của phép biện chứng mà ông đã cảm nhận được một cách rõ ràng. Theo ông, mọi sự vật đều bao hàm hai mặt: chính phản đối lập nhau, nương tựa nhau mà tồn tại, sự vật phát triển đến điểm đỉnh thì chuyển sang mặt tương phản. Đó là điều mà ông nhấn mạnh “phản là động của đạo”, phải biết lấy nhu thắng cương, lưỡi mềm nên lưỡi còn, răng cứng nên răng mất. Do đó ông chủ trương con người sống theo lối “vô vi”, biết đủ, không tranh giành. Có như vậy thì mới mong bảo toàn được sinh mạng, tránh được những điều nguy hại. Vì thế đối với ông, con người không cần phải có tài. Con người có tài sẽ sinh ra xảo trá, gian ngoa (Trí tuệ xuất hữu đai ngụy). Ông chủ trương không tôn trọng người tài để dân không tranh giành (Bất thượng hiền sử dân bất tranh).
Như vậy theo Lão Tử, con người không cần phải có tài. Tài nhiều chỉ để người ganh ghét. Tài nhiều chỉ để tạo hoá bù trừ vào đó là cái mệnh bạc. Cho nên, ở góc độ nào đó có thể khẳng định thuyết tài mệnh tương đố xuất phất từ định luật bù trừ của tạo hóa mà Lão giáo rất coi trọng.
Nguyễn Du đã cụ thể hoá cái thuyết bù trừ của Lão Tử thành tài mệnh tương đố. Tuy nhiên với Lão giáo, tạo hoá bù trừ chỉ là một triết lí rút ra từ sự suy nghiệm cuộc sống, từ sự thông đời hiểu thế của một triết gia.
2. Giới thuyết về tư tưởng “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận”
- Tài là tài năng, là những phẩm chất hay năng lực của một người mới sinh ra đã có hay trau dồi mà có. Tài có thể là tài hoa, tài tử cũng có thể là tài trí dũng, tài mưu lược. Cho nên, tài gồm cả trí tuệ và kĩ năng.
Mệnh có nguồn gốc Nho giáo. Nho giáo cho rằng, mỗi người sinh ra đều có mạng số, cái phúc phần mà trời ban gọi là thiên mệnh. Đó là ý trời, là sự công bằng một cách kì dị của Hóa Công, Hóa Nhi, của “cỗ máy vũ trụ”, của “Hồng quân”, làm cho cuộc đời của một người trở nên tốt, xấu, xa hoa hay nghèo khó… tất cả đều đã được định sẵn trong quỹ đạo hoạt động của tự nhiên, không thể thay đổi... Như vậy, mệnh có thể là phần phúc cũng có thể là bất hạnh. Tử Hạ nói: “Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”, chết sống do số mệnh, giàu sang do trời.
Tài mệnh ghét nhau nghĩa là chúng không tồn tại đồng thời trong mỗi con người, giữa tài và mệnh có sự chống đối nhau. Tài đa thì mệnh bạc, tài càng nhiều thì cái phúc phần càng ít. Càng có tài bao nhiêu thì số mạng càng ngang trái bấy nhiêu. Người càng có tài thì càng đau khổ. Những người có tài mà nhiều người thấy được thì sẽ bị ganh ghét. Sắc và tài là hai cái mà khi phát tiết ra ngoài nhiều quá thì sẽ làm cho người mang nó đau khổ:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
Tài mệnh tương đố là nỗi thống khổ không nói nên lời của biết bao nhiêu bậc tài hoa, bao nhiều tài từ, nỗi thống khổ của kẻ biết vì sao mình khổ mà không thể thay đổi được cuộc sống của chính mình, mong muốn thay đổi nhưng không biết làm sao thay đổi, mong cầu được hạnh phúc nhưng lại không thể hạnh phúc, chỉ còn biết uất hận, nghẹn ngào, phiêu dạt trong kiếp sống đọa đày theo “ý trời”.
- Hồng nhan là những người phụ nữ đẹp, được trời ban cho sắc đẹp cực kì diễm lệ, một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút mọi người. Bạc mệnh là chết non, chết sớm, phận mỏng, lao đao nhiều trắc trở.
Người xưa quan niệm vẻ đẹp của người phụ nữ vượt quá vẻ đẹp của tự nhiên , tức là vượt qua định mức cao nhất là trời thì vận mệnh long đong nhiều cay đắng, khổ sở. Hồng nhan họa thủy, hồng nhan với nét đẹp khuynh nước khuynh thành, gây điên đảo các bậc anh hùng, vương tôn quý tộc gây nước mất nhà tan, trở thành tội nhân của đất trời cũng không ít nhưng cũng không thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn, không thoát khỏi định mệnh đã an bài.
3. Tư tưởng “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận” thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Du
3.1. Thơ chữ Hán
3.1.1. Hình ảnh người phụ nữ tài hoa bạc mệnh.
Họ dù là hạng người nào: một bà phi, một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một người kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết sức trân trọng. Nguyễn Du trân trọng từ những nét đơn sơ giản dị nhất, ông vẽ lại họ chỉ bằng những nét chấm phá, chỉ cần điểm xuyết thì các cô gái trong tác phẩm của ông đều trở nên đẹp và xinh tươi hơn bao giờ hết.
Ví như nàng Tiểu Thanh (Độc thiểu thanh ký), cô Cầm, người hầu cũ của em, cô gái ở đất La Thành (Điếu La Thành ca giã), cô gái hái sen của miền tây (Mộng đắc thái liên III), người đẹp cách tường cao (Ngẫu thư công quán bích I), các cô gái đẹp ở đất Thương Ngô, Quảng Tế (Thương Ngô Trúc chi ca XIV, Quảng Tế ký thắng), cô gái cài hoa vàng (Thương Ngô Trúc chi ca XI), người đàn bà giận chồng, người đàn bà trong đá vọng phu, các bà phi của vua Thuấn (Thương Ngô tức sự, Thương Ngô mộ vụ, Thương Ngô trúc chi ca III, VIII), chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quý Phi (Dương Phi cố lý), Ngu Cơ (Sở Bá Vương mộ), Chiêu Quân, ba người đàn bà ở miếu Tam Liệt (Tam Liệt miếu)… và đặc biệt là hình ảnh người vợ hiền đầu ấp tay gối của nhà thơ (Ký mộng)… Tất cả họ đều mang một nét chung rất đậm là họ rất đẹp, họ tài hoa và dĩ nhiên là bất hạnh.
Cô Cầm một thời nổi danh là bậc nhất chốn kinh thành thì bây giờ tàn tạ, gầy còm, ngồi nép bên góc chiếu, dáng tội nghiệp. Trong “Ngô gia đệ cựu ca cơ”, tác giả cũng nhấn mạnh đến nỗi đau xót của mình khi gặp lại hai người ca nữ xa xưa. Lúc ấy, Nguyễn Du như “con hạc đen trở về kinh thành nào ai biết(Huyến hạc quy lai kỉ cá tri) và nàng ca cơ xưa xinh đẹp, giọng ca có một không hai, bây giờ đã lấy chồng, có ba con mà đáng thương thay, nàng vẫn mặc chiếc áo cũ từ ngày ra đi. Họ là những người quen biết cũ. Nguyễn Du thương tâm, đau lòng trước cái đẹp đã không còn tồn tại. Cái nhìn của ông xuyên ngược thời gian để khóc cho chiếc áo cũ, cho tiếng đàn xưa, chút chua xót, vương vấn, tiếc nuối:
“Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt tỉ”
(Chậu nước đổ, thế là thôi, khó lòng vét lại được
Ngó sen đứt, thương thay, tơ vẫn còn vương)
Phân tích cụ thể để thấy được tư tưởng tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận qua một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu:
a. Độc Tiểu Thanh ký
Độc Tiểu Thanh ký là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
 Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
 Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
 Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất
hạnh:
Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
 Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.
Nguyễn Du cỏ cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tổn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sóng và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào. 
Đến hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)
 Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.   
Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái ăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt. 
Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào ! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
b. Long Thành cầm giả ca
Long thành cầm giả ca là bài thơ mở đầu phần Bắc hành tạp lục trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời "dâu bể" của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.
Đây là một bài thơ rất đáng quí. Đáng quí không chỉ vì nó là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của ông; nó thấm đượm lòng yêu thương vô bờ và sự cảm thông vô hạn của nhà thơ tới những người phụ nữ bị xã hội phong kiến hắt hủi vùi dập, mà quan trọng hơn là trong bài thơ này Nguyễn Du còn phản ánh được nét đẹp tâm hồn của các tướng lĩnh Tây Sơn, những nghĩa binh Tây Sơn, những người đã một thời bên kia chiến tuyến với ông, điều các tác phẩm văn học đương thời ít đề cập, thể hiện được.
Nguyễn Du đề cập đến họ như một yếu tố, một mắt xích trong số phận nhân vật chính - người ca nữ tài hoa - mà ông yêu mến. Vẻ đẹp của họ toát lên từ bài thơ chính là thông qua thái độ trân trọng nâng niu người ca sĩ đất Long Thành vốn vẫn bị xã hội phong kiến hắt hủi, khinh miệt. Nguyễn Du đã đặc tả ca nữ với ngón đàn tuyệt diệu trong một đêm tiệc lớn của các tướng lĩnh Tây Sơn.  
"Xuân độ ấy đang hồi ba bả
Ánh hồng trang lộng lẫy mặt hoa
Não người vĩ rượu ngà ngà
Năm cung dìu dặt nãy qua phím đàn
Tiếng khoan thoảng thông ngàn gió thổ
Tiếng trong như hạc gọi xa xăm
Mạnh như Tiến Phúc sét gầm
Buồn như tiếng Việt Trang nằm đau rên"
Tiếng đàn vô song đó đã thấm vào tâm hồn từng người lính, từng tướng lĩnh Tây Sơn, khiến họ quên cả nỗi mệt nhọc sau cuộc "Trường chinh vạn dặm": 
"Ai nấy nghe nhường quên mệt mỏi
Rõ tiếng đàn đại nội trung hòa
Tây Sơn quan khách la đà
Mảng vui quên cả tiếng gà tan canh"
Trước tiếng đàn "quân thiên nhã nhạc ai bì" ấy của người thiếu nữ Long Thành họ lắng nghe quên cả đêm khuya thanh vắng, rồi tranh nhau bày tỏ mối thiện cảm với một thái độ phóng khoáng, trân trọng: 
"Tả lại hữu tranh giành gieo thưởn
Tiền như bùn ước lượng qua qu
Vương hầu thua vẻ hào ho
Ngũ lăng chàng trẻ ai mà kể chi"
Thậm chí đến mức tôn thờ ca nữ như một vật báu vô song: "Tưởng chừng như ba mươi sáu cung xuân" chung đúc thành một vật báu vô giá của đất Trường An.
Hai mươi năm sau, vào thời điểm Nguyễn Du viết bài thơ này (1813) khi gặp lại người ca nữ xưa kia trong bữa tiệc bạn bè đưa tiễn ông, vị chánh sứ của triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du bàng hoàng khi thấy con người tài hoa nhất thành, lộng lẫy khoe hương sắc trong bữa tiệc của các quan Tây Sơn giờ đây tàn tạ thu mình ngồi cuối chiếu đàn bản đàn ngày nào:
"Mé cuối tiệc một người nhonh
Tóc hoa râm mặt võ mình gầy
Bơ phờ chẳng sửa đôi mày
Tài hoa ai biết đất này không hai"
Vẫn tiếng đàn xưa, tiếng đàn giúp Nguyễn Du nhận ra người quen biết tài hoa thuở nọ. Nhưng thân phận ca nữ giờ đây khác hẳn. Không một ai ngoài Nguyễn Du để ý đến nàng. Đâu phải chỉ vì giờ đây cô gái trẻ trung, phong nhã ngày xưa đã trở thành "một chị gầy gò, vẻ tiều tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như quỉ, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều mảnh trắng" mà Nguyễn Du đau lòng. Ở đầu bài thơ, khi nhớ lại hình ảnh ca nữ trong đêm tiệc của các tướng lĩnh Tây Sơn Nguyễn Du không đặc tả nhan sắc ca nữ mà đặc tả ngón đàn của nàng. Trong lời tiểu dẫn bài thơ ông cũng ghi rõ rằng nàng "không đẹp lắm". Nàng được những người Tây Sơn quí trọng, hâm mộ chính là nhờ tài đàn những bản nhạc "hay nhất ở trên trời cũng như giữa cõi người". Ngón đàn ấy không tàn phai theo năm tháng. Nó trường tồn. Nhưng không phải lúc nào cũng có những khách tri âm hiểu và trân trọng. Nguyễn Du đau lòng "bồi hồi không yên, ngẩng lên, cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay" là vì vậy. Phải chăng trong sự xót xa cho số phận ca nữ, cho "người ta trong cõi trăm năm, những sự vinh, nhục, buồn, vui thật không lường trước" được đó có bao hàm cả sự xót xa cho chính bản thân mình của nhà thơ? Phải chăng Nguyễn Du đau đớn vì nhận ra sự đối lập về bản chất giữa hai triều đại mà ông chứng kiến? Một triều đại ông từng quay lưng, lẩn tránh và có ý nghĩ chống đối thì giờ đây khi nó đã tiêu vong ông mới thấy nó đã làm được nhiều điều tốt đẹp cho con người, luôn vì con người - điều ông luôn mơ ước. Còn triều đại mà ông đi theo phục vụ lại chà đạp lên lý tưởng nhân văn của ông. Dù có muộn sự thức tỉnh trên vẫn là điều hết sức đáng quí. Không chối cãi được rằng trong cuộc đời Nguyễn Du có lúc có những hạn chế về nhận thức chính trị. Nhưng là một nghệ sĩ chân chính nhà thơ biết trăn trở suy xét để đi đến những nhận định khách quan. "Long Thành cầm giả ca" chính là sự thể hiện sinh động điều đó. Nó vừa đánh dấu sự chuyển biến trong nhận thức của nhà thơ, vừa chứng tỏ sự chiến thắng của chân lý hiện thực trong thơ ông. Tuy muộn màng nhưng nó đã góp một phần không nhỏ trong tiếng nói ca ngợi, phản ánh những nghĩa binh Tây Sơn, phong trào nông dân Tây Sơn. Nó xứng đáng được xếp là một trong những bài thơ hay nhất, có giá trị tích cực nhất trong tập thơ chữ Hán của ông.
3.1.2. Hình ảnh những bậc hiền tài
Hình ảnh những bậc hiền tài cũng là đối tượng quan tâm của nhà thơ. Đọc hết sử sách, đi hết Trung Quốc nghe danh người tài, Nguyễn Du rất ngưỡng mộ. Hàng loạt các bài thơ dành cho những Hoàng Sào, Cù Các Bộ (Quế Lâm Cù Các bộ), Liễu Tông Nguyên (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch), Khuất Nguyên (có 6 tác phẩm), Đỗ Phủ (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I, II), Lý Bạch, Hàn Tín (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu), Văn Thiên Tường (Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng), Âu Dương (Âu Dương văn Trung Công mộ), Bùi Tấn Công (Bùi Tấn Công mộ), Tỷ Ca, Lạn Tương Như, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, Hai ông họ Sơ, Nhạc Phi (Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ, Nhạc Vũ Mục mộ)… họ đều là những người tiếng tăm lừng lẫy trong lịch sử Trung Quốc.
Xưa nay người tài thường hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Nguyễn Du mến họ vì họ là những người trung nghĩa, yêu nước, thương nòi, trọng danh kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo nước. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài, nhất định không chịu hàn phục nhà Thanh.
Ông cũng ca ngợi Âu Dương, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tống. Âu Dương là người tài giỏi, tính cương trực thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không được lòng bọn quyền quý, nhiều lần bị gián chức vẫn hết lòng can Vua. Đó là người có tài mà có đức nhưng lại thường hay bị hãm hại.
Về Giả Nghị, ông than thở “trời sinh người tài mà không có chỗ dùng”, ghé mộ Đỗ Thiếu Lắng, nghĩ tới cuộc đời nghèo khổ, bệnh tật, đến chết, gia đình không đủ tiền đưa thi hài bậc thi tiên thi thánh về quê an tang. Nguyễn Du chạnh lòng rơi nước mắt:
“Ở hai thời đại khác nhau
Thương nhau rơi nước mắt
Ông cùng khổ như vậy há phải vì hay thơ”
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)
Trong thời buổi đầy bất trắc mà ông sống, con người càng có tài càng bị ghen ghét “Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc” là một thực tế tàn nhẫn. Người ghét đã đáng sợ. Không may thay, chừng như, trời cũng ghét kẻ có tài nên Nguyễn Du hay than thở: “Phàm những người sinh ra có khí phách khác thường thì trời đất vẫn hay ghen ghét” (Điệu khuyến), “Người có tài thường bị văn chương ghen ghét” (Ninh Minh Giang chu hành), “Làm sao trời đất lại ghen nhầm người” (Tự thán 2)…
Chí tình và sâu sắc hơn nữa là đối với những người mắc một nỗi oan lạ lùng như Khuất Nguyên, Đỗ Phũ, Nhạc Phi. Nguyễn Du đau đớn thay Khuất Nguyên, nuốt tủi thay Đỗ Phũ, ngậm hờn thay Nhạc Phi. Đó là những người có tài, một sớm một chiều bị số phận vùi dập. Họ sống giữa đời ôm tài nuốt tiếng, thân xác biến thành tro lạnh, tài hận mang theo.
Có đến sáu bài thơ Nguyễn Du nói đến Khuất Nguyên. Nguyễn Du coi Khuất Nguyên như một tượng trưng đau đớn về số phận con người tài hoa mà bất hạnh. Con người “tỉnh một mình” kia luôn là nhân chứng mạnh mẽ thuyết phục cho đế độ hà khắc, khắc nghiệt của bọn phong kiến đối với người tài. Hoa lan, hoa chỉ là loại cỏ thơm tượng trưng cho tấm lòng cao khiết mà Khuất Nguyên thường đeo bên mình được Nguyễn Du nhắc đi nhắc lại nhiều lần biểu hiện cho sự tri âm tri kỷ, Tống Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên về, còn Nguyễn Du lại cho rằng khắp mặt đất này đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là Thượng quan thì làm gì có chỗ cho người có cái tâm trong suốt kia có chỗ nương tựa, nên ông khuyên hồn nên sớm về cõi hư vô… Rồi cuối đời Khuất Nguyên cũng phải gieo mình tự vẫn vì oan khuất, đến xương cốt cũng chẳng tìm thấy:
Hoài Vương quy táng Trương Nghi tử
Sở quốc từ nhân kí bội lan
Thiên cổ chiêu hô chung bất phản
Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan
Yên ba diểu diểu không bi oán
La cổ niên niên  tự tiếu hoan
Hồn nhược quy lai dã vô thác
Long xà quỷ vực biến nhân gian
(Ngũ nguyệt quan canh độ)
            Dịch nghĩa :
Hoài Vương chết, đưa hài cốt về mai táng, Trương Nghi cũng chết
Nhớ nhà thơ nước Sở đeo chùm hoa lan
Ngàn năm gọi hồn, hồn vẫn không về
Thuyền đua đầy sông, nào có ý nghĩa gì đâu
Nhìn khói sóng mịt mù mà đau thương oán giận
Hàng năm chiên trống vẫn cứ bày trò vui như thế này đây
Vả chăng hồn ông có về cũng không biết nương tựa vào đâu
Khắp nhân gian nơi nơi đầy rẫy rắn rồng, quỷ quái.
Với Nhạc Phi, đó cũng là một con người văn võ toàn tài, tận trung báo quốc, một sớm một chiều bị hại chết bởi tên gian thần Tần Cối. Qua Yển thành nơi Nhạc Phi đóng quân Nguyễn Du buồn rầu cho tình đời, mười năm chiến đấu xả thân chỉ được cái việc bị giết chết một cách tàn nhẫn nơi đình Phong ba để triều đình tạ tội với người Kim.
“Đương thì tằng trú Nhạc gia quân
Thử địa kinh kim hữu chiến trần
Đại tướng không hoài bang quốc sỉ
Quân vương dĩ tuyệt phụ huynh thân
Kim bài thập nhị hữu di hận
Thiết kị tam thiên không mộ vân
Huyết chiến thập niên thành để sự
Phong Ba đình hạ tạ Kim thân”
(Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư sứ)
Dịch nghĩa:
 “Thời đó quân của Nhạc tướng quân từng đóng ở đây
Đất này xưa nay đã trải qua cát bụi chiến tranh
Đại tướng luống chịu mang cái nhục nước
Nhà vua đã dứt bỏ tình cha anh
Mười hai thẻ kim bài để lại mối hận
Ba ngàn quân kỵ chỉ còn lại đám mây chiều
Mười năm huyết chiến để thành ra cái việc
Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ lỗi với người Kim”
3.2. Văn chiêu hồn
“Văn chiêu hồn” hay còn gọi là “Văn tế thập loại chúng sinh” là một bài văn khấn tế, đề cập đến xã hội hồn ma một cách thảm thương nhất. Bài tế viết về mười loại chúng sinh theo quan niệm của nhà Phật. Nguyễn Du đã vẽ lại những hình ảnh đau thương của kiếp người với bao nhiêu sự tranh chấp, bao nhiêu mưu toan lừa đảo, bao nhiêu sự sắp đặt danh lợi, bao nhiêu nỗi nhọc nhằn gian lao… để rồi tất cả trả về cho cát bụi, đôi tay buông xuôi, chỉ còn lại nấm cỏ khâu đầu sông bãi nọ. Tất cả đều vô thường, tất cả đều là không.
Đó là hình ảnh lộn trái của xã hội trần thế, song khác biệt cơ bản ở chỗ không có đối lập giàu nghèo, sang hèn. Chúng sinh ai cũng như ai cùng chịu cảnh đọa đày, oan khuất và cô đơn nên nhà thơ xót thương tất cả. Đối với người tài, người hiền, ông vốn quan niệm rằng xưa nay hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Ông mến họ vì họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo quốc. Ông hết lời tuyên dương họ và nêu bật được những nét tích cực nhất của họ.
Nguyễn Du cũng đưa ra nhiều chi tiết trình bày cuộc đời của những kiếp người khác nhau. Trừ đoạn đầu (1-12) và đoạn cuối (137-184), chúng ta có thể phân thành 14 tiểu đoạn phác họa về người đời và đời người:
1. Câu 22-32:  Cũng có kẻ tính đường kiêu hãnh …
                        Mà cô hồn biết bao giờ cho tan.
2. Câu 33-44:  Cũng có kẻ màn lan trướng huệ …
                    Càng năm càng héo, một đêm một dài.
 3. Câu 45-56:  Kìa những kẻ lâu đài phượng các …
                    Nặng oan khôn lẽ tìm đường hóa sinh.
 4. Câu 57-68:  Kìa những kẻ bài binh bố trận …
                  Nào đâu điếu tế nào đâu chưng thường.
 5. Câu 69-80:  Cũng có kẻ tính đường trí phú …
                 Tuần hương giọt nước biết tìm vào đâu.
 6. Câu 81-92:    Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý …
                   Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng.
 7. Câu 93-96:  Cũng có kẻ ra vào sông bể …
               Đem thân chôn giấp vào lòng kình nghê
 8. Câu 97-100:   Cũng có kẻ đi về buôn bán …
                  Hồn đường phách xá lạc loài nơi nao.
 9. Câu 101-108:  Cũng có kẻ mắc vào khóa lính …
               Tiếng oan văng vẳng tới trời càng thương
 10.  Câu 109-116: Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp …
                           Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu
 11.  Câu 117-120:  Cũng có kẻ nằm đầu gối đất …
               Sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan.
 12.  Câu 121-124:  Cũng có kẻ mắc đoàn tù rạc …
                        Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi.
 13.  Câu 125-128:  Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé …
                        U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.
14. Câu 129-136: Kìa những kẻ chìm sông lạc lối…
             Có người sa sẩy, có người khốn thương …
Mỗi một tiểu đoạn trên biểu trưng cho một thân phận con người, và cũng chính mỗi đoạn trên cho thấy trạng huống đau thương của kiếp người, dù sang hèn, lầu cao cửa rộng hay đầu đường xó chợ, bãi bể hay góc núi … rốt cùng “mỗi người một nghiệp khác nhau” (câu 139) nhưng đều bị chi phối bởi sự tang thương, đổi thay, trắc trở để rồi nhận lấy cái chết thảm thương, oan hồn không siêu thoát được. Tất cả những hình ảnh khổ đau đầy rẫy cảnh bể nương dâu đó, Nguyễn Du đã thu tóm lại trong câu:
Kiếp phù sinh như hình như ảnh,   (câu 169-170)
Có chữ rằng “vạn cảnh giai không”.
 Nói khác đi, tất cả những hoàn cảnh ấy đã trình bày những khía cạnh vô thường như quan niệm của nhà Phật nơi mỗi kiếp người. Đời người như trong bài văn tế phác họa cũng chính là quan niệm của đạo Phật: Sinh, Lão, Bệnh, Tử.
Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh” hay “Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du hơn bất cứ tác phẩm nào khác của ông đã biểu lộ rõ rệt tinh thần Từ Bi của nhà Phật. Tâm hồn cảm xúc chân thành của một nhà thơ hòa với cảm quan đạo Phật đã Nguyễn Du có những lời lẽ thống thiết, thương xót thân phận làm người. Và lồng trong những ngôn từ đó, tấm lòng từ bi của tiên sinh được thể hiện và những lời lẽ, những hình ảnh đưa ra ngầm chứa sự khuyên răn, muốn ra tay tế độ, thức tỉnh kẻ còn sống u mê bằng hình thức văn tế dành cho kẻ chết vậy.
Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng trong “Văn chiêu hồn”, Nguyễn Du đã nói đến nghiệp kiếp của những khách má hồng, những người kỹ nữ sống cuộc đời “sống làm vợ khắp người ta”(109-166):
Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh, buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con đó, biết là cậy ai
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu”.
Khi hạ bút viết “Đau đớn thay phận đàn bà” trong Văn chiêu hồnĐoạn Trường Tân Thanh, cũng như khi phác họa cuộc đời của kẻ “làm vợ khắp người ta” nói một cách riêng, Nguyễn Du đã ít nhiều đề cập đến điều mà đạo Phật gọi là Nghiệp hoặc Kiếp dành cho đàn bà, nhất là những người phụ nữ ấy lại “nổi danh tài sắc một thì”. Đó cũng chính là chủ đề mà Nguyễn Du viết về thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” được tác giả thể hiện rõ hơn trong Đoạn Trường Tân Thanh.
Từ thế giới của những người đã khuất, Nguyễn Du cất lên tiếng nói cảm thương, đau đớn, phẫn uất cho thân phận con người trên suốt dòng thời gian kim cổ. Cái tôi trữ tình của Nguyễn Du luôn xuất hiện với trái tim mang nhiều cung bậc của niềm thương cảm: liên, sầu, bi, cảm, ai, thán, bồi hồi, thương tâm… Chìm đắm trong thế giới tâm linh, Nguyễn Du đau nỗi đau của mình, của người, của đời, nỗi đau ấy nhân lên gấp bội khi nhà thơ nhìn vào hiện thực, thấy những anh hùng tiết nghĩa, những tài tử văn nhân, rút cục chỉ còn lại những nấm mồ hoang, mọc đầy cỏ dại:
Kìa những kẻ bài binh bố trận
Đem mình vào cướp ấn nguyên nhung.
Gió mưa sấm sét đùng đùng,
Dãi thây trăm họ nên công một người.
Khi thất thế tên rơi đạn lạc,
Bãi sa trường thịt nát máu rơi,
Bơ vơ góc bể chân trời,
Nắm xương vô chủ biết vùi nơi nao?
Tác giả nhận ra rằng nơi nơi đều là dòng chảy Mịch La oan nghiệt.
Bằng trái tim nồng hậu, chân thành, Nguyễn  Du đã thể hiện trong sáng tác của mình những quan niệm riêng về con người, nhất là về nỗi đau thân phận con người trong những điều kiện xã hội có áp bức bóc lột “Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (Truyện Kiều) “Đau đớn thay phận đàn bà, Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu” (Văn chiêu hồn). Do đó, đọc Truyện Kiều và Văn chiêu hồn của Nguyễn Du, ta càng hiểu rõ cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm và những kí thác đời ông vào những hình tượng nhân vật tài hoa mà bạc mệnh. Những con người mà ông tỏ thái độ bênh vực thông cảm sâu sắc, những gái lầu xanh, những kẻ hành khất, những kẻ tù phạm, những kẻ chết non, chết oan v.v… Những con người mà ông tỏ thái độ đả kích là những con người thuộc tầng lớp quý tộc, những quan cai trị, những quan võ, những kẻ chí thú làm giàu v.v
Phàm những người sinh ra có khí phách khác thường “Thì trời đất vẫn hay ghen ghét”. Thật ra cái thuyết “tài mệnh tương đố” có cơ sở thực tế, cơ sở xã hội của nó, và nó có tính chất phổ biến, nghĩa là nó nảy sinh bất cứ chế độ xã hội nào có đấu tranh giai cấp, có áp bức bóc lột, khi người ta chưa nhận thức được đầy đủ vấn đề đấu tranh xã hội và quan niệm những lực lượng xã hội như những thế lực siêu nhiên. Trong xã hội phong kiến, tài được quan niệm một cách trừu tượng mà mệnh thì là một yếu tố siêu nhiên, và vấn đề xung đột giữa tài và mệnh mang tính chất trừu tượng, siêu hình. Đến xã hội tư bản, khi người ta đã ý thức được rõ hơn vai trò và quyền lợi cá nhân cũng như vấn đề đấu tranh xã hội thì thuyết “tài mệnh tương đố” chuyển hóa thành vấn đề cụ thể hơn, đó là vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng và xã hội, đi đến chung hơn, nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội. Vấn đề này trở thành đề tài chung của rất nhiều tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XIX. Nhưng dù ở trình độ nhận thức nào đi nữa thì thực chất xã hội của vấn đề vẫn là một, và khi hiểu được, như chúng ta ngày nay, tài năng cá nhân là kết tinh trí tuệ và nghị lực của quần chúng nhân dân thì vấn đề càng có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Cuối cùng, về thực chất, đó chính là vấn đề quyền sống của con người và vấn đề chế độ xã hội.
3.3. Truyện Kiều
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du hơn một lần nói về bất hạnh của người “tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
“Rằng hồng nhan tự thửơ xưa.
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”.
Rồi:
“Phận sao bạc chẳng vừa thôi
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan”.
Xét về nguồn gốc của thuyết này, Đào Duy Anh đã khẳng định: “Tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Du trong sách này là tài mệnh tương đố, tư tưởng ấy là nòng cốt tinh thần cho toàn truyện, mà mỗi một chương, mỗi một chi tiết, mỗi một đoan là để chứng minh cho nó mà thôi. Tư tưởng ấy gốc ở thuyết thiên mệnh của Nho giáo”.
3.3.1. Cuộc đời “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” của Thúy Kiều
- Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều
“Mai cốt cách tuyết tinh thần”
“Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
“Thông mình vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”
“Tay tiên gió táp mưa sa”
Tài năng và nhan sắc của Thúy Kiều còn được thể hiện qua ngôn ngữ của nàng. Nó như là một thông điệp làm tăng thêm sự sắc sảo, thông minh của nàng trong lòng người khác: “Biết dường khinh trọng, biết lời phải chăng”
Đến tên cáo già Hồ Tôn Hiến mà còn bị chinh phục:
“Nghe càng đắm, ngắm càng say.
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.
Nàng Kiều với vẻ đẹp, tài năng dường như ẩn chứa trong đó sự hờn ghen đố kỵ của con tạo. Và cũng vô tình trong lễ thanh minh, đi tảo mộ, nàng bắt gặp nấm mộ xè xè bên đường của Đạm Tiên, nghiệm đến thân mình mà than: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Và cuộc đời 15 năm lưu lạc của Kiều cũng chính là một câu trả lời cho sự tiên nghiệm đó. Kiều cũng chịu chung số phận với những người đẹp trong lịch sử, họ trở thành nạn nhân của chế độ phong kiến vô nhân đạo.
- Số phận nghiệt ngã
Trải qua bao sóng gió đoạn trường, một nàng Kiều sắc nước hương trời đã chịu bao nghiệt ngã đổ lên tấm thân yếu mềm của mình. Ngoài cảnh “Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần”, Kiều đã phải trải qua hai lần đi trốn, bốn lần định tự tử, hai lần đi tu, sáu lần lấy chồng, mấy lần bị đòn và hành hạ…
Tuổi cập kê nén lòng vì chữ hiếu bán mình chuộc cha, đâu hay rằng một bước lại sa vào vòng nhục nhã, muốn thoát cũng không được.
Tấm thân ngọc ngà trong mười lăm cái xuân xanh của tuổi trẻ chỉ biết tới mùi của khổ đau: “Tiếc thay một đóa trà mi. Con ong đã tỏ đường đi lối về”
Lời ngọt thì lọt đến xương”, quả đúng vậy, biết Tú Bà và Mã Giám Sinh lừa mình, Kiều rút dao tự tử nhưng khi nghe lời “khuyên giải” của Tú Bà, Kiều tiếp tục sống.
Tưởng Sở Khanh là một chính nhân quân tử, Kiều lóe lên một hi vọng giải thoát thân mình, không ngờ gã họ Sở lừa lọc lại cùng phường với Tú Bà.
Kiều hứng lấy một trận roi “nát thân bồ liễu”, rồi chịu đày thân mình lại chốn lầu xanh, sống kiếp “làm vợ khắp người ta”, để “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh. Giật mình mình lại thương mình xót xa”.
Cứ ngỡ Thúc Sinh thực lòng mà chung sống, nào ngờ thế gian độc địa, Thúc Ông lấy làm nhục mà cáo quan, Kiều lại thêm một trận sống dở chết dở vì đòn roi quan phủ. Vượt qua thử thách với trí thông minh và tấm lòng bao dung, nhẫn nhịn, Kiều được sống những ngày được làm người.
Thật thương thay người có lòng nhưng trời vẫn không tha. Thúc Sinh lại là kẻ “nhất vợ nhì trời”, Kiều lại phải chịu thêm đòn roi và bao tủi nhục.
Cùng đường, đem thân gửi chốn thiền môn, dè đâu chẳng được yên thân, đã trốn đi, vào chùa rồi lại còn sa vào tay Bạc Bà, Bạc Hạnh.
Tưởng rằng được gặp Từ Hải trả ân báo oán thế nhưng lại rơi vào vòng luẩn quẩn không cùng. Ân oán vừa báo xong, người chưa phút gặp song thân chẳng may lại gặp phải nạn mới, chỉ bởi nhẹ dạ. Một bước thoát cảnh hồng trần, cũng một bước sa vòng nghiệt ngã, một bước Kiều trở thành phu nhân nhưng một lời của Kiều lại làm cho Từ Hải phải chết đứng giữa vòng vây kẻ thù.
Điều gì đến ắt không thể tránh
“Rằng: Hồng nhan tự nghìn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”
- Nỗi đau đớn và nước mắt tuyệt vọng của Kiều
Tài mệnh tương đối không chỉ là câu chuyện bất hạnh của người có sắc đẹp mà còn là câu chuyện bất hạnh của người sống bằng tình. Di chứng, nỗi ám ảnh… hằng sâu vào tâm hồn và thân thể của họ.
Cái còn lại sau những lằn roi mà số phận nghiệt ngã quất xuống đời họ… là nước mắt… là tuổi hờn… là đau đớn
“Lòng đâu sẵn mối thương tâm
Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa”
“Lại càng ủ dột nét hoa
Sầu tuôn đứt nối châu sa vắn dài”
“Nỗi riêng lớp lớp sống dồi
Nghĩ đòi sơn lại sụt sùi đòi cơn”
“Giọng Kiều rền rĩ trướng loan”
“Màu hoa lê hãy dầm dề giọt sương”
“Đau lòng kẻ ở người đi
Lệ rơi thắm đá tơ chia rũ tằm”
Kiều là cô gái yếu đuối như bao nữ nhi khác. Khi phải hứng chịu bao đọa đày của đất trời, tình cảm của nàng cứ trào ra lâm ly, thống thiết. Người đa tình mà thế gian lại quá vô tình. Người đa cảm mà cuộc đời cứ hững hờ, vô cảm. Thúy Kiều cô độc, lặn ngụp trong nỗi đa sầu đa mang ấy, đến nỗi:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu trong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”
 Hết lần này đến lần khác, khi gặp nạn, con người tài sắc, tài hoa, tài tình này chỉ biết khóc.
Tấm thân Kiều bị vùi dập, chà đạp, hành hạ, lừa gạt, sỉ vả, đến ngao ngán, bi phẫn, uất nghẹn, ê chề. Ấy vậy mà gần 3000 câu thơ, vẫn còn sót lại một nụ cười duy nhất. Nụ cười ấy trở nên quá nhỏ bé giữa biển nước mắt mênh mông.
“Cùng nhau trông mặt cả cười
Dan tay về chốn trướng mai tự tình”
Nếu số mệnh đã cho Kiều một lần được cười lớn thì cũng cho nàng, lần này phải khóc đến lã người, đau đớn như hồn lìa khỏi xác:
“Dòng thu như xối cơn sầu
Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên
Lạ thay oan khí tương triền
Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra”
Đau khổ tột đỉnh là sự dằn vặt chính bản thân mình. Tình huống trơ trêu khiến Kiều là kẻ gián tiếp giết Từ Hải, giết người mình thương yêu, quý trọng, cũng là giết đi hạnh phúc, giết đi chính bản thân mình. Kiều một đời đã sống vì tình và đến đây thì cũng “chết” vì tình, bởi trái tim quá yếu mềm, dại dột.
Khi bị rơi vào đêm trường đầy trái ngang, oan nghiệt, người con gái mang đầy dự cảm về thân phận mong manh ấy chỉ biết khóc. Nước mắt vô dụng, nó không thể kéo con người ta ra khỏi bùn nhơ, khỏi vực sâu tăm tối. Vì thế nước mắt không chỉ tượng trưng cho nỗi đau mà còn tượng trưng cho sự cúi đầu bất lực, mệt mỏi và cam chịu. Những người tài hoa, tài sắc và tài tình đứng trước số trời, trước số mệnh chỉ có thể cúi đầu khuất phục. Họ là những kẻ không sao tẩu thoát được khỏi cái án “tài mệnh tương đố” cứ mãi treo lơ lửng trên đầu.
Đã mang lấy nghiệp phong trần
Cũng đừng oán trách trời gần, trời xa”
3.3.2. Cuộc đời “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” của các nhân vật khác trong “Truyện Kiều”
Không chỉ riêng một mình Kiều có sắc, có tài mà phải chịu muôn phần nghiệt ngã. Thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” còn vận vào nhiều người khác như Đạm Tiên, Từ Hải…
-         Đạm Tiên được coi là người tài sắc vẹn toàn
“Nổi danh tài sắc một thì,
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh”
Thế nhưng duyên phận nàng lại quá hẩm hiu:
“Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”
Trong dòng chuyển dịch, như một cỗ xe sắp rã mục, xã hội phong kiến cố hơn mình để dìm kiếp người tài hoa vào tuyệt lộ thâm u, rùng rợn:
“Phũ phàng chi bấy góa công
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta.
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng”
Sống trong một xã hội mà luật thừa trừ luôn bất di bất dịch. Tạo hóa đã ban tặng cho con người tài sắc nhưng lại không dành tặng cho họ cuộc sống ấm êm, hạnh phúc. Có điều bất bình như vậy là bởi đạo Trời vốn ghét cái trọn vẹn: “tạo vật đố toàn, tạo hóa kị doanh”, cho nên Nguyễn Du mới nói:
“Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”
-         Từ Hải, một anh hùng “đội trời đạp đất”
“Rằng: là từ đấng anh hùng
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi”
Cũng không thể tránh khỏi định mệnh, “trí dũng có thừa” nhưng khi vướng vào thuyết “tài mệnh tương đố”. Sự “côn quyền hơn sức lược thao gồm tài” đó thoắt cũng tiêu tan theo một cái chết thê lương, dữ dội:
“Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng hon chân giữa vòng.
Trơ như đá, vững như đồng
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời”
Chế độ phong kiến rất sợ cái tài nhưng nếu quan niệm tài là tài hoa, tài tình “nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa” thì Kim Trọng, Thúy Vân hay Hồ Tôn Hiến cũng là những nhân vật có tài nhưng lại không vị quy luật “tài mệnh tương đố” chi phối.
Ngay từ đầu khi nói về Thúy Vân, Nguyễn Du đã thông báo cho mọi người biết được một tương lai rạng sáng đang được mở ra:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Kim Trọng cũng được không kém phần ưu ái:
“Nền phú hậu bậc tài danh
Văn chương nết đất thông minh tính trời”
Đối với Hồ Tôn Hiến, đây lại là nhân vật xuất hiện ít nhất trong truyện nhưng khi miêu tả thì chỉ bằng mấy câu thơ, Nguyễn Du đã làm nổi bật lên cái tài kinh luân xuất chúng của hắn:
“Có quan Tổng đốc trọng thần
Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài
Đẩy xe vâng chỉ đặc sai
Tiện nghi bát tiễu việc ngoài đổng nhung”
Hồ Tôn Hiến giết được Từ Hải chỉ bằng sự thông minh của mình mà không phải tốn một chút sức lực nào, sự chiến thắng một cách triệt để đó khiến người ta vừa căm hờn vừa khâm phục.
ð    Có sự khác biệt về số phận giữa mọi người là do cái nghiệp từ kiếp trước tạo nên. Bởi thế mà “cho thanh cao mới được phần thanh cao”
3.3.3. Vấn đề mở rộng
a. Tư tưởng “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc mệnh” đúng hay sai?
Tư tưởng “tài mệnh tương đố” không đúng cho tất cả trường hợp
Đem ba nhân vật nữ tượng trưng cho sắc tài là: Đạm Tiên, Thúy Kiều, Thúy Vân ra cùng đối chiếu
+ Thúy Vân là có sắc đạp hài hòa, dung hợp, nó không kiêu kì, không sắc sảo, không quá khác thường
+ Cái đẹp của Đạm Tiên, Thúy Kiều là cái đẹp sắc nước hương trời, nghiêng nước nghiêng thành dữ dội khiến tất cả phải “xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh”, đẹp đến “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”
Đạm Tiên và Thúy Kiều còn trội hơn Thúy Vân bởi tài cầm kì thi họa, bởi tư chất thông minh, mẫn tuệ và sự tinh tường nhạy cảm. Nhưng quan trọng nhất là cái tình ẩn chứa bên trong hai con người này quá lớn.
Trật tự phong kiến, nhất là trong thời suy, là một thứ trật tự chà đạp lên con người, xem con người chỉ là một lợi khí. Với thứ trật tự ấy, tiện nhất là được những người như Thúy Vân. Một người con gái mới lớn, còn bàng quang trước tình cảm của người khác và cũng không yêu ai.
“Kiều là một người rất phiền phức cho trật tự phong kiến” (Hoài Thanh).
Nội tình của Kiều, sức sống của Kiều, say mê của Kiều gây rắc rối, lộn xộn cho cái trật tự ấy biết bao nhiêu. Sức sống Kiều khiến cho cái nền phong kiến bị chông chênh, rạn nứt.
Lại đem ba nhân vật nam trong Truyện Kiều ra so sánh: Từ Hải, Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng. Đây là ba đấng nam tử đầy kì tài.
+ Hồ Tôn Hiến với tài kinh luân, có thể gọi là kẻ “đại trí”.
+ Từ Hải với tài võ nghệ, lược thao, tài hoa, tài tử, có thể sánh với bậc đại dũng.
+ Kim Trọng thì con nhà chức cao vọng trọng, là bậc tài danh, tài tử, tài hoa, tài tình.
Vậy cớ sao bốn chữ “tài mệnh tương đố” chỉ đeo đẳng và ứng nghiệm với cuộc đời Từ Hải?
Thứ nhất, có thể nói, đó là vì Từ Hải là kẻ đứng đầu danh sách những người có hại cho xã hội phong kiến, là tên đầu sỏ chĩa mũi tấn công vào các giai tầng cao cấp của thể chế này.
Thứ hai, Từ Hải lại là kẻ quá đa tình. Chàng chết vì bị tình yêu làm mờ mắt:
“Khóc rằng trí dũng có thừa
Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này”
Hồ Tôn Hiến, Kim Trọng tuy kẻ ác, người thiện nhưng đều là hạng người an toàn cho xã hội phong kiến. Bản thân Hồ Tôn Hiến là tay sai đắc lực cho chế độ này. Còn Kim Trọng là đứa con yêu của xã hội phong kiến, được “nền phú hậu, bậc tài danh”  làm bệ đỡ vững chắc, được cả xã hội phong kiến giữ gìn, bao bọc.
Mệnh trời là một lẽ, yếu tố quan trọng còn là lòng người. Cái sắc, cái tài ấy có được xã hội ưng thuận thì mới “thanh cao”, nếu đã làm mất lòng rồi thì lập tức sẽ bị triệt tiêu, vùi dập.
Tài mệnh tương đố, hay chính lòng người đố kị, nhân tình bạc bẽo. Kẻ muốn vươn lên ắt sẽ bị đạp xuống, kẻ muốn phá hủy trật tự ắt sẽ bị trật tự ấy phá hủy. Trời không muốn và lòng người cũng không dung thứ cho những tài, sắc, và tình phi thường. Bởi thế tài mệnh tương đố đúng hay sai còn tùy thuộc vào từng người từng cảnh.
b. Cách nhìn và thái độ của Nguyễn Du đối với thuyết “tài mệnh tương đố”, “hồng nhan bạc phận”. Đời Kiều hay là đời tác giả?
Qua cuộc đời “Hết nạn nọ đến nạn kia. Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần; Khi Vô Tích khi Lâm Tri. Nơi thì lừa đảo nơi thì xót thương; thoắt buôn về thoắt bán đi, mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi” của Thúy Kiều, Nguyễn Du khái quát thành quy luật chung
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Có ý kiến cho rằng Truyện Kiều chính là một tác phẩm phỏng theo tâm sự có thật của chính tác giả: “Cụ với Kiều tuy sinh không đồng thời, ở không đồng xứ, nhưng cũng là một thanh một khí…”
Cụ là một người trung thần mà gặp buổi Lê suy, cũng như Kiều là một người trinh nữ gặp cơn gia biến. Dù cụ có muốn trung với Lê Hoàng, song nhà đổ, một cây chống sao cho nổi, khác gì Kiều, muốn thủ nghĩa với Kim Trọng, song chuộc cha thế phải bán mình (Lê Văn Hòe)
Nguyễn Bách Khoa, nói về truyện Kiều kia một cách quyết đoán như chân lý bao giờ cũng nằm sẵn trong túi áo: “Truyện Kiều kia, Nguyễn Du viết ra không phải chỉ để diễn tả tâm sự, cũng không phải chỉ để tả thời đại ông. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để tự giải thoát bằng cách tự thực hiện mình ở các vai trò, ở các sân khấu trên đó tấn trò đã diễn ra đủ hồi, đủ lớp”.
Nguyễn Du suy nghĩ về cuộc đời, cảm khái về cuộc đời, về những điều trông thấy mà đau đớn lòng. Do gắn bó với con người, với cuộc sống và do phải trải qua những năm gian truân, ông đặc biệt thương xót người có tài có tình. Ấy là những nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà cuộc đời trải qua muôn vàn bất hạnh; là những bậc anh hùng hào kiệt mà thất thế; là những người phụ nữ sắc đẹp khuynh thành mà phải chịu số phận buồn thảm.
Trong tư tưởng ông, những lực lượng tàn phá cái hay, cái đẹp ông khái quát thành số mệnh. Trong thế giới hình tượng Truyện Kiều, lần lượt xuất hiện bọn quan lại, bọn lừa lọc, buôn người… những thủ phạm trực tiếp gây ra số kiếp long đong lận đận của Kiều. Hiện thân của họ là những đồi phong bại tục. Đây là thực tại của những thiết chế trong xã hội phong kiến suy tàn. Nên mâu thuẫn giữa chế độ phong kiến và bản chất con người là ý nghĩa đích thực, là bản chất của thế giới hiện thực được mô tả qua nội dung truyện. Nhưng tác giả lại nhận thức với một ý nghĩa siêu hình: bản chất của nó là mâu thuẫn giữa tài và mệnh. Tài mệnh tương đố là niềm tin sâu sắc của tác giả.
Chế độ phong kiến trên đà tan rã nên không dung nổi tài hoa. Không gian lồng lộng mà tài hoa không có điểm tựa để tồn tại nên Đỗ Thập Nương làm kỹ nữ, Thúy Kiều bán mình, Giả Bảo Ngọc phải uất hận ra đi; những người ấy, tình của họ đầy đến mức đành phải “khối tình ôm xuống tuyền đài chưa tan”
Nói cho cùng, sự mâu thuẫn ở đây là sự mâu thuẫn trong con người, trong tư tưởng của ông chứ không phải giữa Tài, mệnh.
Giáo sư Trần Đình Hượu từng nhận xét: “Các nhà nho cho sắc đẹp là một thứ của làm nước mất nhà tan, một điềm bất tường. Gia đình xã hội đề cao người con gái nết na đoan trang chứ không đề cao sắc đẹp. Cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều thể hiện những triết lý của Nguyễn Du về thuyết “hồng nhan bạc phận” nhưng ta có thể nhận thấy sự đồng cảm và bênh vực của thi nhân đối với  những người phụ nữ nhan sắc. Nguyễn Du viết về người phụ nữ tài sắc bằng con mắt thoát ly với định kiến thong thường của xã hội phong kiến và mang tầm tư tưởng nhân đạo cao cả. Viết về Kiều, dù cuộc đời lưu lạc của nàng đầy cay đắng nhưng ông không gợi cho người đọc nàng là một kỹ nữ đáng khinh miệt mà Nguyễn Du luôn đứng trên lập trường bảo vệ nhân phẩm và cảm thông tri âm với nàng.”
Nguyễn Du đã thật tài tình khi ngấm ngầm đẩy Kiều trở về với cuộc sống thanh sạch, đã khiến cho tâm hồn Kiều vẫn giữ được những phẩm chất cao thượng cho đến phút hạ màn. Đó dường như cũng là ước mơ, là khát vọng của ông về một lối thoát, một chân trời bình yên, tươi sáng cho những người tài hoa bạc mệnh.
KẾT LUẬN
Nhìn ở góc độ nào đó thuyết tài mệnh tương đố, hồng nhan bạc phận mà Nguyễn Du nêu ra là xuất phát từ học thuyết của tam giáo đồng nguyên nhưng Nguyễn Du đã cảm nhận và giải thích nó bằng quan niệm rất riêng. Nguyễn Du không hề rơi vào duy tâm hay bi quan. Mặc dù trong tác phẩm có nhiều câu phát biểu trực tiếp của tác giả còn gọi là lời trữ tình ngoại đề mang tính siêu hình nhưng qua hệ thống hình tượng nhân vật ta thấy lời phát biểu của tác giả với tư tưởng tác phẩm mâu thuẫn nhau. Cho nên có thể nói, Nguyễn Du là một nhà tư tưởng không triệt để. Nguyễn Du đã từng bảo rằng “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”. Cuối cùng Nguyễn Du lại than một câu:
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Nhà thơ đã nhận ra cuộc đời là thế. Cuộc đời là sự tranh quyền đoạt thế, lòng ích kỉ của con người làm cho họ sẵn sàng hãm hại nhau, mà người có tài luôn là cái gai trong mắt của những kẻ tiểu nhân. Một xã hội phản động luôn tìm cách loại trừ những bậc tài năng. Thế nên, chúng tôi rất đồng tình với Đỗ Đức Dục: “Trong xã hội phong kiến, tài được quan niệm một cách trừu tượng mà mệnh là một yếu tố siêu nhiên, và trong vấn đề xung đột giữa tài và mệnh gắn liền với thuyết như  Hồng nhan bạc mệnh, Bỉ sắc tư phong mang tính chất trừu tượng và siêu hình, đó là mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng với xã hội, rồi đi đến chỗ chung hơn nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội… Cuối cùng, về thực chất đó là quyền sống của con người và chế độ xã hội.
Chủ đề “Tài mệnh ghét nhau” có ý nghĩa khách quan, ý nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ đề đó, vượt xa tư tưởng chủ quan của tác giả, nó đề cập đến vấn đề quyền sống của con người trong xã hội phong kiến
Qua đó, ta cũng thấy rằng ở thế kỉ XVIII, số phận, hạnh phúc của người phụ nữ được bênh vực công khai bằng lời lẽ vừa bi ai, vừa quyết liệt. Có thể xem đây là mầm móng cho tinh thần hiện thực phê phán sau này. Nhưng ở thời đại bấy giờ, Nguyễn Du chỉ dừng lại ở mức độ đồng tình với những mảnh đời bất hạnh, thông cảm cho họ và phê phán xã hội chứ chưa tìm ra giải pháp giải phóng họ. Nhìn thấy những bất công để rồi căm phẫn, không giải quyết được bất công để rồi bất lực, bi quan, rồi lại rơi vào chủ nghĩa định mệnh. Đó là trường hợp của Nguyễn Du.


                                                                       
Tham khảo
1.1.2 Định mệnh – hạn chế trong tư tưởng Nho gia cũng là hạn chế trong tư tưởng Truyện Kiều:
Nếu đi tìm tư tưởng định mệnh ở Nguyễn Du thì không đâu bằng tìm ởTruyện Kiều. Như đã nói thuyết “tài mệnh tương đố” không bao trùm hết số phận các nhân vật trong Truyện Kiều. Thế giới của Truyện Kiều là thế giới của những con người có tài: tài hoa, tài trí dũng, tài trí xảo. Nhưng không phải ai có tài cũng đều bất hạnh, như: Kim Trọng, đại thần Hồ Tôn Hiến, Vương Quan, Thuý Vân đều là những kẻ có tài, người có sắc nhưng số phận không nghiệt ngã đối với họ. Nguyễn Du đã lí giải điều này dựa trên thuyết định mệnh của Nho gia. Đây cũng là một học thuyết bất công mà con người tỏ ra bất lực:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
            Điều này có nghĩa là số phận con người đã được giới tối cao định sẵn, “tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên”, sống chết có số, giàu sang do trời. Cho nên, “vạn sự bất do nhân kế hiệu, nhất sinh đô thị mệnh an bài ” [7;46], mọi việc chẳng do người toan tính bởi cả đời người đều được số mệnh an bài.
Theo GS. Lê Đình Kỵ: “Một mặt chủ nghĩa định mệnh của Truyện Kiều bắt nguồn từ tư tưởng thiên mệnh của đạo Nho…Mặt khác, chủ nghĩa định mệnh của Nguyễn Du cũng đồng thời bắt nguồn từ tư tưởng luân hồi nhân quả của nhà Phật”. Còn bài viết của Tạ Ký trong Việt Nam thi văn trích giảng thì cho rằng: “Chúng ta không nên lầm định mệnh với thiên mệnh của Nho giáo. Trời theo quan niệm Nho giáo không phải là ông trời của Định mệnh thuyết” [11;64].
Nhưng việc xác định nguồn gốc của một học thuyết tư tưởng có ý nghĩa gì chăng? Tại sao các nhà nghiên cứu thường hay đi tìm nguồn gốc của chúng?
Nếu như các triết gia đi từ những hiện tượng riêng lẻ để đi đến khái quát chúng thành qui luật thì các nhà nghiên cứu đi ngược lại. Nghĩa là, nhà nghiên cứu đi từ những thuộc tính, những biểu hiện của hiện tượng rồi quy hiện tượng ấy vào quy luật chung, dựa vào quy luật chung ấy mà tìm đến bản chất của hiện tượng và tiến hành lí giải chúng. Chẳng hạn, ta cho câu tục ngữ “hễ gieo gió thì gặt bão”là học thuyết nhân quả của nhà Phật thì ta có thể dựa vào thuyết ấy mà lí giải câu tục ngữ trên.
Một ý thức hệ ra đời là xuất phát từ cách phân tích, đánh giá của con người ở một thời đại nhất định, xuất phát từ một thực tại xã hội nhất định. Nói rộng ra, một thượng tầng kiến trúc chỉ phù hợp với một cơ sở hạ tầng nhất định. Đứng trên lập trường quan điểm khác nhau sẽ có cách đánh giá khác nhau. Sở dĩ tư tưởng đạo đức Nho gia không vạch trần được tội ác trong cuộc sống hiện thực của con người, không phân tích chúng một cách sâu sắc bởi Nho giáo nhìn nhận cuộc sống bắt nguồn từ cái thiện, “nhân chi sơ tính bổn thiện”. Mọi học thuyết của Nho giáo đều nhằm mục đích duy nhất là hướng con người vào cái thiện. Còn Phật giáo nhìn cuộc sống con người ở chữ “si” (ngu si, vô minh) và do vô minh mà con người cứ bị quay vòng trong chữ khổ. Học thuyết nhà Phật ra đời cốt yếu nhằm giải trừ nỗi khổ cho con người.
Bởi thế, nếu xác định thuyết định mệnh vừa bắt nguồn từ tư tưởng thiên mệnh của Nho gia vừa bắt nguồn từ tư tưởng luân hồi nghiệp báo của nhà Phật thì đó là một mâu thuẫn lớn. Theo Phật giáo, mệnh do nghiệp mà ra, nghiệp tốt thì hưởng mệnh tốt, nghiệp xấu thì hưởng mệnh xấu. Nghĩa là con người hoàn toàn có khả năng quyết định vận mệnh của mình, mình muốn tương lai được tốt thì hiện tại phải làm việc tốt. Định mệnh không làm người ta bi quan mà hướng con người làm việc tốt nhằm giải khổ cho con người. Nho giáo thì ngược lại. Tư tưởng thiên mệnh dạy con người phải biết “uý thiên mệnh”, sợ mệnh trời và phục tùng số mệnh. Bởi “Đấng hiền xưa nói rằng: Những người biết mệnh thì thấy lợi lộc cũng chẳng động lòng tham, đến lúc phải chết cũng chẳng oán, mệnh cho một ngày thì sống một ngày, mệnh cho một giờ thì sống một giờ, dù nhanh hay chậm thì nẻo trước cũng bấy nhiêu đường mà thôi (nghĩa là số mạng đã định trước thì dù lâu hay mau cũng sẽ đến nơi đó). Thời mà lại thì dầu cao như gác Đằng Vương gió cũng sẽ đến, vận mà qua thì có vững như bia Tiến Phúc sấm cũng đánh ngã”.
(Tích hiền viết: tri mệnh chi nhân, kiến lợi bất động, lâm tử bất oán, đắt nhất nhật quá nhất nhật, đắt nhất thời quá nhất thời, khẩn hành , mạn hành, tiền trình chỉ hữu hứa đa lộ. Thì lai phong tống Đằng Vương các, vận khứ lôi oanh Tiến Phúc bi). [7;49]
Định mệnh của Nho giáo là qui luật định sẵn, con người không có khả năng chống lại. Nho giáo bắt con người phục tùng tuyệt đối số mệnh của mình. Người làm quan thì cứ lo an phận làm quan đừng mơ mộng đổi đời làm vua vì anh ta đâu có số làm vua, còn người đã có số làm vua thì dù có trốn tránh thế nào cũng sẽ làm vua. Thuyết định mệnh ấy nhằm mục đích duy nhất là ổn định trật tự  xã hội.
Tóm lại, nếu định mệnh bắt nguồn từ tư tưởng nghiệp báo luân hồi của nhà Phật thì ta có thể thay đổi, còn tư tưởng định mệnh bắt nguồn từ tưởng thiên mệnh của Nho gia thì ta không thể thay đổi, phải phục tùng.Vậy với Nguyễn Du, định mệnh có thể thay đổi được chăng?
Như ta biết, ảnh hưởng tư tưởng định mệnh trong Truyện Kiều còn rất mạnh. Tư tưởng đó được ông thầy tướng số bày ra trước, Đạm Tiên tiếp tục củng cố và phát triển, cuối cùng người tổng kết lại chính là sư vãi Giác Duyên. Có lẽ trong con người thi sĩ Nguyễn Du có niềm tin nơi định mệnh ở một mức độ nào đó. Con người chúng ta, nhất là những lần thất bại trong cuộc sống, chúng ta thường trở nên bi quan và đổ lỗi cho định mệnh, cho số trời. Đó cũng là tâm lí chung nhằm giúp con người được chút an ủi khi thất bại. Ở xã hội thời Nguyễn Du, những bất công, những đổi thay của xã hội, của lịch sử cứ liên tục diễn ra mà con người không lí giải nổi, cho nên Nguyễn Du tin vào định mệnh là lẽ đương nhiên. Đó không chỉ là đức tin của Nguyễn Du mà còn là đức tin chung của thời đại, của Nho sĩ thời bấy giờ. Cũng như Nguyễn Huệ đã dựa vào lực lượng nông dân để để làm nên sự nghiệp lẫy lừng, nhưng khi lên ngôi thì Ngô Thì Nhậm lại viết: “… Nước Việt Nam ta từ Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến nay, thánh minh dấy lên không phải vì một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn vận mệnh do trời không phải do người tạo ra.” [ Dẫn theo 11;71]
Có thể nói tư tưởng thiên mệnh một mặt là sản phẩm của xã hội phong kiến, một mặt là công cụ để quan lại phong kiến dùng để duy trì trật tự xã hội. Nhưng Truyện Kiều của Nguyễn Du không nhằm mục đích tuyên truyền, mị dân giúp cho chế độ lúc bấy giờ mà nổi trội là ý nghĩa phê phán và buộc tội xã hội. Tuy vậy, thuyết định mệnh cũng làm cho Truyện Kiều rơi vào một vài hạn chế và cũng là mâu thuẫn lớn trong con người Nguyễn Du. Một mặt, ông phê phán định mệnh, một mặt lại rất tin vào định mệnh. Và dường như với quan niệm Nguyễn Du, phụ nữ là người chịu sự áp đặt khắt khe nhất của định mệnh:
Hồng quân với khách hồng quần,
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha.
            Hay:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Từ Đạm Tiên đến Thuý Kiều và cả Thuý Vân cũng chịu sự chi phối của định mệnh. Nhưng khác nhau là Đạm Tiên và Thuý Vân là những người thuận theo mệnh mà sống, còn Thuý Kiều là người luôn chống lại định mệnh.
Đạm Tiên sau khi chịu số hồng nhan bạc phận thì chịu yên theo kiếp “làm ma không chồng”, chịu yên theo bổn phận làm sứ giả truyền lời phán quyết của Hội chủ hội đoạn trường đến Kiều. Nàng không một chút than van, không một lời kể khổ. Có lẽ tuân theo mệnh trời, biết an phận con người sẽ không khổ. Kết luận này được chứng minh bằng sự đối lập giữa cuộc đời Thuý Kiều và Thuý Vân. Kiều và Vân cùng sinh trong gia đình gia giáo, cùng là những kẻ tài hoa, sắc nước hương trời. Nhưng cuộc đời Vân không vướng lấy cái khổ, bởi lẽ nàng là người nhất nhất tuân theo số mệnh. Vân vốn không yêu Kim Trọng, nhưng khi Kiều trao duyên Vân vẫn nhận lời. Vân nhận lời với một thái độ cam chịu, phó mặc hạnh phúc cho định mệnh. Vân thừa nhận mình nhận duyên là bởi:
Chuộc cha chị lỗi duyên này,
Thôi đành duyên chị sau này thay em!
Tiếng “thôi đành” mà Vân cất lên, ta nghe như lời cam chịu đến nghẹn ngào. Bởi lẽ, điều mà Kiều trao là tình duyên – một thứ mà xưa nay không ai lại trao gởi , chia sẻ – mà lại là một chút duyên thừa. Nếu người trao duyên đã đau khổ đến ngất đi thì người chấp nhận mối duyên thừa ấy trong lòng cũng chết lịm. Người trao duyên đau khổ đã đành, người “chấp mối duyên thừa” cũng vô vàn khó xử. Nguyễn Du đã đặt Vân vào tình cảnh trái ngang hơn  ngàn ngang trái. Vì biết đâu Kim Trọng không yêu Vân, biết đâu hạnh phúc cả đời Vân sẽ  tan vỡ vì tình yêu Kiều luôn ám ảnh trong tâm trí chàng Kim?
Thế nhưng với Nguyễn Du, niềm lo lắng ấy không tồn tại, tất cả đều được sự dàn xếp ổn thoả của định mệnh. Ông cho rằng, con người sẽ không buồn lo, đau khổ nếu họ biết tuân theo mệnh trời. Và như thế, Vân trải qua cuộc sống gia đình êm ấm vì lúc nào Vân cũng giữ tròn bổn phận. Mặc dù, Kim Trọng sống bên Vân nhưng tâm hồn lúc nào cũng nghĩ về Kiều còn Vân không hề ghen tuông vì biết mình chỉ là kẻ thế thân. Định mệnh đã bắt Vân phải chịu cuộc đời như vậy. Nếu Vân không có cái tư tưởng thuận mệnh thì có lẽ Vân sẽ luôn dằn vặt, tâm hồn lúc nào cũng không yên vì tủi phận, vì ghen tuông! Nhưng điều đó không xảy ra vì an phận đã làm Vân thanh thản với cuộc sống. Vân chỉ biết cúi đầu nhất nhất tuân theo. Định mệnh bắt Vân “chấp mối duyên thừa” thì Vân cứ nhận, định mệnh bắt Vân trả duyên thì Vân trả duyên. Vân không một lời oán than, không một phút ngại ngần. Vân là mẫu người phụ nữ lí tưởng nhất của thời đại phong kiến. Vân biết im lặng khi cần im lặng và biết lên tiếng khi cần lên tiếng. Đó là lúc Vân nói lời trả duyên. Vân lên tiếng là hợp lí nhất, vì:
+ Kiều trao duyên cho Vân thì Vân là người trả duyên mới đúng.
+ Kim Trọng không thể là người đưa ra yêu cầu kết duyên với chị của vợ mình.
+ Gia đình cũng không thể đứng ra tác hợp cho Kim Kiều vì như thế là bức ép Vân, Vân một lần nữa phải chịu thiệt. Kiều sẽ không bao giờ chấp nhận điều đó.
Cho nên, ta thấy hình như  Nguyễn Du đã trăn trở rất nhiều, cân nhắc rất nhiều khi  để Vân trả duyên. Thực chất trả duyên hay nhận duyên không không phải cái quyền Vân được tự do lựa chọn, mà tất cả đều đã được sắp đặt sẵn của định mệnh. Điều này Kiều cũng đã được Đạm Tiên mách cho biết khi nàng tự vẫn ở sông Tiền Đường. Đạm Tiên đã cho Kiều biết:
Còn nhiều hưởng thụ về sau,
Duyên xưa đầy đặn phúc sau dồi dào.
            Như vậy là duyên tái hợp ấy là ở ý trời. Vân cũng thừa nhận :
   Rằng: “ Trong tác hợp cơ trời
Hai bên gặp gỡ một lời kết giao…”
            Nghĩa là việc tác hợp lại là ở cơ trời, Vân  hay Kiều đều không phải là người quyết định. Vân thừa nhận rằng ngày xưa chỉ vì:
Gặp cơn bình địa ba đào
Mới đem duyên chị buộc vào thay em.
Nhưng mà :
Bây giờ gương vỡ lại lành,
Khuôn thiên lừa lọc đã đành có nơi.
            Cho nên, việc Kim Kiều hợp lại là một lẽ tất nhiên. Điều này đã được trời định rồi. Trời “Bắt phong trần phải phong trần,  Cho thanh cao mới được phần thanh cao”. Cuộc sống chúng ta chịu rủi ro hay nhận phần nhàn hạ, hạnh phúc đều được một lực lượng huyền bí quyết định rồi. Con người nếu tuân theo, an phận theo thì không thấy gì là đau khổ; còn nếu cố đấu tranh cũng chỉ chuốc lấy khổ đau vì không thể nào thoát khỏi số mệnh. Con người có cố gắng vùng vẫy, mưu mô nhiều rốt cuộc cũng thấy mình bị kẹp trong gọng kìm định mệnh. Thuý Kiều đã rơi vào trường hợp ấy. Lúc nhỏ Kiều đã được ông thầy tướng số mách rằng:
Anh hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
            Khi Kim Trọng nghe Kiều giải bày niềm lo lắng thế, chàng trấn an rằng “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Nhưng cuộc đời Kiều có “thắng thiên” được không? Mới êm ấm hạnh phúc đó, mới thề nguyền chung thuỷ đó rồi gia biến, rồi Kiều trở thành người vong phụ. Mời sống cuộc sống khuê các đó rồi phút chốc lại trở thành cô gái phong trần. Và trong suốt 15 năm lưu lạc, Kiều không ngừng đấu tranh với số mệnh nhưng không lần nào thắng. Lần đầu tiên, Kiều định chết vì biết “Phẩm tiên rơi đến tay hèn”, nhưng sợ Mã Giám Sinh làm khó song thân nên cam chịu:
Nỗi mình âu cũng giãn dần,
Kiếp chầy thôi cũng một lần mà thôi.
            Rồi Kiều tự tử thật khi biết mình rơi vào nhà chứa của mụ Tú Bà nhưng lại được cứu sống và được Đạm Tiên mách bảo:
Rỉ rằng: “Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
Số còn nặng nghiệp má đào,
Người dù muốn quyết, trời nào đã cho!
Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau…”
            Thế là con đường chống đối số mệnh bằng cách huỷ thân không còn thực hiện được vì trời đã định Kiều phải sống, còn số mệnh Kiều sẽ được giải quyết khi Kiều đến sông Tiền Đường. Cho nên, những lần vấp ngã sau Kiều không còn nghĩ đến cái chết mà cố giữ cho mình cái tâm thanh tĩnh. Ý thức về nhân phẩm thúc giục Kiều phải luôn chống đối với hoàn cảnh, chống đối lại số mệnh. Và như đã nói, chống mệnh chỉ tự làm khổ mình. Nếu Kiều cứ yên phận sống ở lầu Ngưng Bích, không có ý định trốn thoát thì đâu bị Sở Khanh lừa và phải tiếp khách, để rồi phải sống những ngày tủi nhục:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đàng.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
            Cũng như không phải vì muốn yên phận với cuộc sống làm lẽ để mong một chút hạnh phúc nhỏ nhoi, thì không tội gì Kiều khuyên Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư, để rồi phải rơi vào tình huống nghẹn ngào:
Hai bên giáp mặt chiền chiền,
Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn, lạ thay!
            Cuộc đời lưu lạc của Kiều, những tình huống thế này cứ lặp lại như một công thức. Kiều cố vượt qua đau khổ này thì cứ mãi gặp đau khổ khác. Kiều muốn trốn khỏi sự ghen tuông của Hoạn Thư nên rời khỏi Quan Âm các. Nhưng ra khỏi Quan Âm các lại rơi vào lầu xanh. Cảnh ghê rợn ở lầu xanh luôn ám ảnh nàng. Nàng khiếp sợ nó đến mức chỉ cần có cơ hội thoát khỏi là nàng không hề từ bỏ và nếu đã rời khỏi chốn đó thì nàng tìm mọi cách để không phải quay vào. Cho nên, khi Hồ Tôn Hiến chiêu hàng, nàng đã nhận lời vì nàng nghĩ làm mệnh phụ của triều đình thì không thể nào trở lại chốn ấy nữa, Kiều nghĩ:
Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng nay chịu tiếng vương thần,
Thênh thang đường cái thanh vân hẹp gì.
Công, tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
     Cũng ngôi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng,
E dè bão tố, hãi hùng phong ba.
            Giữa cái xã hội xô bồ, lòng người bạc ác, Kiều thường hay nghi ngờ cho nên những kẻ gian ác thường hay thề thốt để nàng tin. Nhưng dường như với Hồ Tô Hiến, Kiều có một sự tin tưởng nhất định vì ít ra hắn cũng là đại diện của triều đình mà triều đình là đại diện của nhân dân, là nơi “thiên tử” ngự. Lòng trung nghĩa của Kiều không cho phép nàng nghi ngờ tên trọng thần này. Chính vì thế mà hắn có cơ hội thể hiện cái bỉ ổi của mình: lợi dụng Kiều để lập công, dùng thủ đoạn xấu xa để đưa Kiều vào đường bất nghĩa:
Giết chồng mà lại lấy chồng,
Mặt nào mà lại sống trong cõi đời?
            Đây không chỉ là nỗi nhục nhã, xấu xa mà còn là một tội lỗi. Sự đau đớn này giúp Kiều nhận ra, càng chống đối lại số mệnh thì càng chịu nhiều oan trái. Số mệnh đã chơi khâm nàng, nàng chỉ biết  chọn cái chết để giải thoát:
Thôi thì một thác cho rồi,
Tấm lòng bỏ mặc trên trời dưới sông!
            Lần này Kiều quyết định tự vẫn vì:
Nhớ lời thần mộng rõ ràng,
Này thôi hết kiếp đoạn tràng là đây!
Đạm Tiên nàng hỡi có hay?
Hẹn ta thì ở dưới này rước ta.
            Cuối cùng Kiều cũng tuân theo số mệnh. Kiều chỉ chống lại những cái mệnh, những điều oan trái do con người gây ra, nhưng cuối cùng phải phục tùng cái mệnh do trời sắp đặt. Mặc dù, chống đối của Kiều không quyết liệt mà có phần nhượng bộ, nhưng nó có ý nghĩa rất lớn trong tác phẩm. Nó khẳng định Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm của mình, luôn  vươn lên trong cuộc sống để “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Điều này đã làm nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Nguyễn Du quá tin vào số mệnh. Suốt câu chuyện nhiều lần Nguyễn Du cho nhân vật của mình tin vào số mệnh. Chẳng hạn, khi Kiều mộng thấy Đạm Tiên đến báo nàng có tên trong sổ đoạn trường thì nàng đã đau khổ:
Cứ trong mộng triệu mà suy,
Phận con thôi có ra gì mai sau!
            Hay là lúc nàng chia tay với Giác Duyên, hai người đã trao đổi:
Nàng rằng: “Thiên tải nhất thì
Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
Rồi đây bèo hợp mây tan,
Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!”
Sư rằng: “Cũng chẳng mấy lâu,
Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
Nhớ ngày hành cước phương xa,
Gặp sư Tam Hợp, vốn là tiên tri.
Báo cho hội ngộ chi kỳ,
Năm nay là một, nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu, vội gì?”
Nàng rằng: “Tiền định tiên tri,
Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
Hoạ bao giờ có gặp người,
Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân”.
             Nhờ sự tin tưởng vào thiên cơ ấy mà Kiều được cứu vớt khi nhảy sông Tiền Đường tự vẫn. Đó là do Tam Hợp báo cho Giác Duyên:
Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
Tiền Đường thả một bè lau vớt người.
Trước sau cho vẹn một lời,
Duyên ta mà cũng phúc người chi không!
Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
Lân la tìm thú bên sông Tiền Đường.
            Và trong truyện lại có rất nhiều nhân vật thuộc loại hình  nhân vật chức năng bói toán. Như ông thầy tướng số chỉ xuất hiện để coi bói cho Kiều, ông thầy pháp chỉ xuất hiện để báo cho Thúc sinh biết cái điều oan trái của Kiều, Đạm Tiên đến báo cho Kiều biết nàng đã có tên trong sổ đoạn trường và cho nàng biết lúc nào thì chưa thể chết và lúc nào thì chết được, còn sư Tam Hợp thì xuất hiện để báo cho Giác Duyên thời gian, địa điểm để cứu Kiều. Cho nên, định mệnh không chỉ là hạn chế trong tư tưởng nhà Nho hay hạn chế trong tư tưởng Nguyễn Du mà còn làm cho các nhân vật trong truyện thiếu tính chân thật. Như Thuý Vân, nàng sống theo chương trình được cài đặt ở “cơ trời”. Điều này làm cho Thuý Vân trở nên một cô gái không có đời sống nội tâm và thiên truyện bị hạn chế ở mặt miêu tả tâm lí của một số nhân vật. Như đã phân tích, có những chỗ đúng ra phải làm rõ nội tâm của Vân nhưng Nguyễn Du không hề chạm tới.
Định mệnh vừa là hạn chế trong tư tưởng Nguyễn Du vừa là hạn chế củaTruyện Kiều. Tuy vậy, nó lại không ảnh hưởng đến giá trị chung của tác phẩm. Định mệnh được Nguyễn Du đưa ra nhằm nói lên sự bất lực của con người cá nhân trong xã hội phong kiến, tố cáo sự tàn nhẫn của xã hội đối với hạnh phúc của con người. Đó là giá trị hiện thực của tác phẩm. Nhưng tư tưởng định mệnh lại làm cho tác phẩm chỉ dừng lại ở giá trị tố cáo hiện thực, nêu lên mâu thuẫn xã hội mà không đi đến đấu tranh giải quyết mâu thuẫn. Hạn chế của Nguyễn Du là khi ông cho rằng mọi sự khổ đau sẽ được giải quyết bằng cách phấn đấu tu tâm chứ không bằng cuộc đấu tranh để thay  đổi thực tại. Cuộc nổi dậy của Từ Hải chỉ là sự đấu tranh tự phát, chỉ là nỗi bức xúc của người không chịu nổi những bất bình  trong xã hội, chỉ là muốn thể hiện chí tung hoành của một người thích tự do. Cái chiến thắng của Từ Hải chỉ là để giúp Kiều báo ân báo oán chứ chưa thật sự đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Nói đúng hơn, sự  nổi dậy của Từ Hải chỉ vì lợi ích cá nhân mà thôi. Cho nên, Từ Hải mới chấp nhận lời khuyên hàng của Hồ Tôn Hiến. Vì vậy, sự nổi dậy này chỉ tát vào mặt chế độ phong kiến cho hả giận chứ không đe doạ sự tồn vong của chế độ. Nghĩa là, Nguyễn Du đã trừng phạt bọn bất lương chứ không muốn thay đổi chế độ. Đó là hạn chế trong tư tưởng thời đại Nguyễn Du.
Xét thái độ của Nguyễn Du đối với tư tưởng định mệnh thì lại thấy ông rất mâu thuẫn. Lúc thì ông cho rằng mọi việc trời định sẵn, con người chỉ việc tuân theo, lúc thì lại bảo rằng con người không hoàn toàn bất lực trước số mệnh vì “có trời mà cũng có ta”, trời quyết định cuộc đời ta, nhưng ta cũng quyết định không ít đến số mệnh của mình. Dù số trời bắt ta bạc mệnh nhưng ta cố hành thiện giúp đời trời sẽ mang lại phúc lành đến cho ta. Như vậy, định mệnh mà Nguyễn Du nêu ra không phải là quy luật bất biến như trong tư tưởng Nho gia mà nó đã chịu sự ảnh hưởng của thuyết nhân quả nhà Phật.
1.1.3       Luật nhân quả – triết lý về sự công bằng của nhà Phật:
Trong Truyện Kiều một triết lí khá rõ rệt là nhân quả luân hồi. Tuy không phải Truyện Kiều được Nguyễn Du viết nhằm rao giảng triết lí nhà Phật nhưng rõ ràng thuyết nhân quả nghiệp báo chi phối rất nhiều đến thiên truyện.
Nghiệp theo nhà Phật là hành động, nghiệp là những việc làm trước kết thành cái quả sau, nghiệp tương đương với chữ nhân trong nhân quả (nhân là căn nguyên, là nguồn gốc của sự vật hiện tượng). Con người gây nghiệp ở quá khứ thì kết thành cái nghiệp ở hiện tại, cái nghiệp gây ở hiện tại thì kết thành quả ở tương lai. Bất cứ hành động hay tác động gì ở nội giới hay ngoại giới đều có hậu quả nhất định gọi là nghiệp. Nghiệp có thiện nghiệp (kasala), có ác nghiệp (akusala). Thiện nghiệp tức nghiệp tốt đưa đến quả báo tốt, ác nghiệp hay nghiệp xấu đưa đến quả báo xấu. Đó là sự công bằng tuyệt đối của thuyết nhân quả.
Theo Trần Trọng Kim, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã vân dụng cái thuyết này để giải thích toàn bộ cuộc đời vui khổ của nàng Kiều. Đem cái thuyết này mà so với cuộc đời Kiều thì ta thấy không chỗ nào là không phù hợp. Nguyễn
Du đã giải thích được tại sao Kiều lại phải chịu cảnh hồng nhan bạc mệnh. Như đã nói, đó là do định mệnh. Nhưng định mệnh chỉ nêu lên kết quả mà không giải thích được nguyên nhân của điều bạc mệnh kia là do đâu. Nguyễn Du đã bổ khuyết vấn đề này bằng thuyết nhân quả nghiệp báo của nhà Phật. Căn cứ vào đấy, ông giải thích nỗi khổ của Kiều là do chính Kiều:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
            Kiều đã có nghiệp sẵn trong mình, cho nên tự lời nói đến tiếng đàn đánh ra đều có cái giọng đau đớn sầu khổ. Và điều sầu khổ kia đã được Đạm Tiên mách trước:
Vâng trình hội chủ xem tường,
Mà xem trong sổ đoạn trường có tên.
Âu đành quả kiếp nhân duyên,
Cùng người một hội một thuyền đâu xa.
            Thế nên, kiếp sống của Kiều là để trả cái nghiệp nàng gây lúc trước. Việc
tình duyên dang dở, cửa nhà tan nát, phải bán mình làm lẽ… bao nhiêu cái cực nhục ấy chỉ xoáy sâu vào mục đích là làm cho Kiều khổ để xứng với cái nghiệp đoạn trường mà nàng đã gây. Vì cái nghiệp nó quấn chặt Kiều nên phải chịu muôn vàn cay đắng, như Kiều không làm lẽ mà rơi vào nhà chứa, bị Sở Khanh lừa nên phải tiếp khách làng chơi, ngỡ được hạnh phúc bên Thúc Sinh thì lại bị Hoạn Thư hành hạ, ngỡ được vinh quang cùng Từ Hải thì lại mang tiếng giết chồng. Đúng là cái nghiệp đã làm cho Kiều gặp “hết nạn nọ đến nạn kia”.
Như vậy, với ý kiến của Trần Trọng Kim thì Nguyễn Du đưa ra luật nhân quả chỉ nhằm giải thích nguyên nhân nỗi khổ của Kiều. Nguyên nhân đó là do Kiều thuộc tính người đa sầu đa cảm, “Phong lưu rất mực hồng quần” và:
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Chỉ có nguyên nhân   như thế mà Kiều phải chịu bao nhiêu là đày đoạ, khổ đau. Điều này gợi cho người đọc, ai ai cũng động lòng thương. “Thương cái số kiếp con người ta chìm nổi ở chỗ mờ tối, vì mê muội mà gây cái ác nghiệp cho mình. Thương con người thông minh, hiếu nghĩa mà cứ gặp nhiều gian truân” [4;554]. Đó là giá trị nhân đạo mà Truyện Kiều đạt được khi vận dụng thuyết nhân quả vào việc thể hiện tư tưởng của truyện.
Cao Huy Đỉnh cho rằng triết lí đạo Phật ở đây đã thể hiện thế giới quan tiêu cực thời bấy giờ. “Trong cái khối thế giới quan tiêu cực hỗn hợp của Truyện Kiều, triết lí Phật chiếm một liều lượng lớn, vì chất bi quan yếm thế của nó dễ diễn tả nhất những nỗi day dứt siêu hình trong tâm trạng con người, nhất là người phụ nữ, nạn nhân cực khổ nhất thời phong kiến, càng là nạn nhân cực khổ nhất thời đại Nguyễn Du” [4;554]. Vì vậy, luật nhân quả nghiệp báo như bị Nguyễn Du lật ngược lại để nhằm khẳng định “Nghiệp báo là cái khổ kiếp trước do nàng Kiều để lại hay là cái khổ do xã hội tàn nhẫn, trong đó nàng đang sống, gây ra?” [4;557]. Đó là ý nghĩa hiện thực khi thuyết nhân quả ứng chiếu vào Truyện Kiều.
Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở đây. Khi đem luật quả báo luân hồi vàoTruyện Kiều, Nguyễn Du còn nhằm khẳng định sự công bằng tuyệt đối của thuyết nhân quả, đồng thời nói lên ước mơ về xã hội công bằng, công lý của con người thời bấy giờ.
Nói đến công bằng, công lý, người ta thường xếp vào “khuôn” lý tưởng hoá đời sống. Tuổi trẻ con người thường không tin có sự công bằng tồn tại, càng không thể tin có luật quả báo luân hồi. Bởi lẽ, họ thấy trong xã hội có biết bao tên gian ác vẫn tồn tại, có khi được sống cảnh giàu sang, còn những người hiếu hạnh, tài năng như Kiều thì lại chịu khổ đau. Bất công còn đầy rẫy trong xã hội thì làm gì có thuyết công bằng?
Nhưng nếu một người đã từng “Trải qua một cuộc bể dâu”, chứng kiến nhiều thay đổi của cuộc đời thì ắt hẳn sẽ tin rằng “thiện hữu thiện báo, ác hữu ác
báo, nhược hoàn bất báo, thì thần vị đáo”, lành có lành báo, dữ có dữ báo, còn nếu chưa báo chỉ vì thời giờ chưa đến. Nguyễn Du đã tin tưởng điều đó.
Kiều là người “hiếu nghĩa đủ đường” nhưng lại phải chịu đau khổ vì cái nghiệp của kiếp trước mà nàng gây ra. Kiều đã ý thức được điều đó và quyết tâm trả cho xong cái nghiệp này. Vì Kiều nghe Đạm Tiên nói:
Rỉ rằng: “ Nhân quả dở dang,
Đã toan trốn nợ đoạn tràng được sao!
Số còn nặng nghiệp má đào,

Người dù muốn quyết trời nào đã cho!…”

Thế nên, Kiều biết mình không thể trốn nợ đoạn tràng. Và Kiều cũng rất tin tưởng tất cả hành động của ta đều được giới tối cao ghi nhận:
Vả trong thần mộng mấy lời,
Túc nhân âu cũng có trời ở trong.
Vì thế mà:
Kiếp này trả nợ chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau.
            Kiều biết rằng trốn tránh khổ đau chỉ làm cho ta càng đau khổ. Cho nên, Kiều chấp nhận khổ đau và tìm phương giải khổ bằng cách làm việc thiện, tu dưỡng tâm hồn, vì Kiều biết rằng:
Đời người đến thế thì thôi!
Trong cơ âm cực, dương hồi khôn hay.
Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
Cuối cùng, Kiều cũng hưởng cảnh đoàn viên, vui vầy hạnh phúc. Điều này đã khẳng định thêm đức tin cho con người. Trong truyện, Kiều là người hay tin nhất vào đấng tối cao. Kiều luôn luôn tin rằng, thần linh sẽ luôn chứng giám và theo dõi mọi hành động của chúng ta để sau này còn định bề thưởng phạt. Cho nên, Kiều không tin người khác nhưng lại tin vào lời thề của họ, vì lời thề là lời cam kết của con người với Thần linh. Ở Truyện Kiều, lời thề luôn có sự ứng báo. Sự công bằng trong Truyện Kiều là một “thuyết tuyệt đối”. Những bọn lường gạt chúng không tin điều đó, chúng xem nhẹ quỷ thần hơn tiền bạc. Cho nên, để lừa dối người khác, chúng rất hay thề. Và lời thề của những kẻ gian trá thường giống nhau. Bọn chúng đều lừa dối Kiều bằng lời thề:
Mã Giám Sinh từng thề:
Mai sau dầu có thế nào,
Kìa gương nhật nguỵêt, nọ dao quỷ thần!
Còn Tú Bà cũng không khác:
Mai sau ở chẳng như lời,
Trên đầu  có bóng mặt trời rạng soi!
Đến Sở Khanh cam kết rất cương quyết:
Dầu khi gió kép, mưa đơn,
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!
Bạc Hạnh cũng một phường như chúng:
Bạc Sinh quỳ xuống vội vàng,
Quá lời nguyện kết Thành hoàng, Thổ công.
Bọn chúng đúng là dối cả thần thánh, chúng đem thần thánh ra thề một cách mạnh mẽ và quyết liệt đến một người “khôn ngoan”, “sắc sảo” như kiều còn phải tin. Thề là mánh khoé của người gian manh, buộc người khác thề là cái thế của người yếu ớt. Đạo Trời thì rất công bằng, không thiên vị một ai, thề sao thì cứ ứng cho như vậy. “Bọn người bạc ác tinh ma” ấy chỉ tồn tại nghiễm nhiên trong xã hội không bao lâu, thời gian mà họ làm ác không bị trừng trị chỉ vì “thì thần vị đáo” mà thôi. Cuối cùng, chúng cũng bị trừng phạt, sự trừng phạt đó chính là quả báo mà họ tự gây nên. Cho nên, ở đoạn Kiều đền ân, báo oán, ta không hề thấy cái lòng oán hận nào của Kiều mà chỉ thấy đó là luật công bằng của tạo hoá. Sự trừng phạt kia chỉ là do ở đạo Trời:
Đạo Trời báo phục chỉn ghê,
Khéo thay một mẻ, tóm về đầy nơi!
Đúng là “lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt”. Con người không thể dối trời hại nhân.Thế nên, trong Truyện Kiều đoạn đền ân báo oán diễn ra là tất yếu.
Cái hay của Nguyễn Du đồng thời là lòng nhân đạo của ông thể hiện rõ nhất ở đoạn đền ân báo oán này. Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết, thật rùng rợn cách trả thù của cô Kiều ở Trung Quốc thì Nguyễn Du chỉ dùng một câu “Thề sau thì lại cứ sao gia hình”. Điều này có nghĩa là trong phiên toà xét xử, Nguyễn Du chỉ để Kiều đóng vai trò của một sứ giả phán lời truyền của giới tối cao:
Nàng rằng: “Lồng lộng trời cao!
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.
            Nguyễn Du đã không để Kiều có cái tâm oán hận.Cũng chính cái tâm hiền từ, lòng vị tha mà Kiều đã tha bổng Hoạn Thư – kẻ đã hành hạ Kiều đớn đau cả tâm hồn và thể xác. Còn cô Kiều của Trung Quốc không được cái lòng độ lượng ấy, lòng cô ta mang đầy oán hận, cô trừng trị kẻ ác cho thoả mãn sự căm thù, cô hành hạ Hoạn Thư, bức tử Hoạn bà. Điều này khẳng định cô Kiều Trung Quốc cũng có cái lòng oán hận, nhỏ nhen, ích kỷ một cách tầm thường như bao người tầm thường khác. Còn nàng Kiều của ta thật thánh thiện và nhân từ! Với người thọ ơn, hết lòng báo đáp, với kẻ bạc ác từ tốn khoan dung. Kiều là thế đấy! “Mụ già” – quản gia nhà họ Hoạn – đã giúp nàng khi nàng bị mẹ con Hoạn Thư hành hạ. Mụ đã:
Khi chén chè, khi thuốc thang
Đem lời phương tiện, mở đường hiếu sinh.
Còn sư trưởng Giác Duyên cho nàng trú ẩn khi nàng đang “lạc lối”. Chỉ thế thôi mà nàng xem như ơn tái tạo, nghĩa nặng bằng non không gì đền đáp. Nàng rằng:
Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
Mà lòng Phiếu Mẫu, mấy vàng cho cân.
            Khi trả ân, Kiều hết lòng. Lúc báo oán Kiều nhẹ tâm. Nếu như cô Kiều Trung Quốc đã ra uy bằng cách giết người thật dã man để đến nỗi Hoạn bà phải chết ngay vì khiếp sợ, còn Hoạn Thư cũng bị đánh một trận đến bán tử bán sinh thì nàng Kiều của ta rất độ nhân từ và hiểu lí lẽ. Hoạn bà đã không hề xuất hiện trong buổi báo oán này vì tất cả chước mưu do Hoạn Thư bày ra nên chỉ một mình Hoạn Thư phải chịu. Thế nhưng, khi Kiều nghe Hoạn Thư trình bày:
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai!”
            Lí lẽ Hoạn Thư đưa ra thật xác đáng. Lời lẽ ấy đã đánh trúng lòng vị tha, lòng nhân ái của Thuý Kiều. Kiều rất cảm thông với số phận của những người phụ nữ. Kiều thừa biết trong xã hội này hạnh phúc của người phụ nữ luôn bị đe doạ nên Hoạn Thư cố công gìn giữ là lẽ đương nhiên. Huống hồ, Hoạn Thư đã kể trúng một điều trọng yếu là khi Kiều trốn khỏi Quan Âm các còn đem theo chuông vàng khánh bạc, vậy mà Hoạn Thư không truy bắt. Cái đức phóng sinh của Hoạn Thư đã để lại cái nghiệp tốt cho nàng. Kiều cũng thấy được cái thiện tâm của Hoạn Thư cho nên quyết định:
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống, trướng thì tha ngay.
            Như vậy, dù Hoạn Thư đã gây nhiều oan trái tạo lắm cay nghiệt cho Kiều nhưng vì còn tích lại một ít công đức và có “lòng tri quá” mà Hoạn Thư thoát nạn.Còn những bọn người bạc ác như Bạc Bà, Bạc Hạnh, Khuyển, Ưng, Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh thì bị trừng trị bằng chính tội ác của họ.
Đây cũng là đoạn thể hiện rõ nhất ước mơ về công bằng, công lý của Nguyễn Du khi cái xã hội rối ren như lúc này. Sự công bằng công lý ấy giúp cho con người có nghị lực vượt qua đau khổ, nó khuyến khích con người làm việc thiện với phương châm “ở hiền gặp lành”. Nó xoa dịu lòng phẩn uất của con người khi chứng kiến những bất công của xã hội. Nó thúc đẩy ý chí vươn lên của Kiều trong cuộc sống.
Nếu đánh mất đoạn này thì cốt truyện vẫn diễn ra logic, bình thường. Điều này đồng nghĩa với việc xác định đây chỉ là tình tiết phụ. Nhưng không có tình tiết này, nghĩa là bọn người bạc ác không bị trừng trị thì xã hội sẽ còn đầy rẫy những “phường buôn thịt”, những “tay buôn người”. Vậy liệu Kiều có chắc sẽ an thân sau khi hưởng cảnh đoàn viên chăng? Hay sau Kiều sẽ còn biết bao cô gái phải chịu cảnh như Kiều, như Đạm Tiên đã từng chịu? Nếu thế, Truyện Kiều lại trở thành một tác phẩm hiện thực phê phán và đoạn kết xảy ra là một điều hết sức miễn cưỡng.
Vả lại, đây còn là một ước mơ về một xã hội công bằng, công lý của Nguyễn Du. Ông mơ đến một xã hội tốt đẹp mà ở đó bọn bất lương luôn bị trừng trị còn những người hiếu hạnh, nhân từ thì tất yếu là hưởng được hạnh phúc. Đó là yếu tố lãng mạn của thiên truyện cũng là lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện trong tác phẩm. Có lẽ, khi Nguyễn Du cho xuất hiện đoạn báo oán thì ông còn một dụng ý đe doạ những kẻ bất lương. Cái lý lẽ của luật nhân quả luân hồi thì ai cũng hiểu, nhưng có mấy ai tin nó? Ở đây, Nguyễn Du đã để nó diễn ra như một quy luật tất yếu. Có nghĩa là, nó sẽ ứng báo với tất cả bất cứ người nào, dù là trọng thần hay dân dã. Nó không chỉ ứng báo với những bọn như Ưng, Khuyển, Sở Khanh,… mà còn có thể ứng báo với cả bọn người như Hồ Tôn Hiến. Đó là điều mà Nguyễn Du không hề nói nhưng người đọc thì ai cũng nhận ra. Tên này mang danh trọng thần nhưng lại dùng thủ đoạn bỉ ổi để lập công. Hắn hứa hẹn với Kiều, rồi phản bội lời hứa để Từ Hải phải chết trong cái uất ức. Rồi thì hắn cũng sẽ bị quả báo. Ta có thể nhận ra ý nghĩa đó là nhờ vào tư tưởng bình đẳng của triết lí đạo Phật. Đó là một thành công của Nguyễn Du khi vận dụng triết lý đạo Phật vào việc xây dựng hình tượng nhân vật.
Từ cái thuyết nghiệp báo này, Nguyễn Du khuyên con người nên phấn đấu làm việc thiện, hãy vững tin rằng “qua cơn bỉ cực đến hồi thái lai”. Và để có được một sự bình yên tuyệt đối trong cuộc sống, con người phải biết tu tâm. Theo Nguyễn Du, hành thiện chỉ đem đến cho con người sự tốt lành trong cuộc sống, nhưng cái tâm ta không tịnh ta cũng sẽ mãi khổ đau.
1.1.4 Tu tâm – Triết lý về con đường giải thoát:
Đang lúc xã hội rối ren, chiến tranh phong kiến xảy ra liên miên, hạnh phúc của mỗi một cá nhân đều bị đe doạ, vậy mà Nguyễn Du khuyên người ta cố gắng tu tâm, bỏ đi những điều ân oán, hận thù quay về tu dưỡng tâm hồn. Tư tưởng này gần với lối sống vô vi, ẩn dật của triết lí Lão – Trang. Ông cho rằng con người có thể tìm được hạnh phúc ngay ở cuộc sống đời thường với điều kiện là chúng ta phải biết tu tâm. Triết lí sống này gần với tư tưởng Nho, Phật hơn.
Giữa cái xã hội thế này, con người dù tài năng đến đâu cũng chỉ là “con cờ” của xã hội, người có tài sắc là món hàng đắt giá của bọn bất lương. Cho nên, Nguyễn Du đã kết luận rằng:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Đề cao chữ tâm giữa lúc thiết chế xã hội đầy rẫy lầu xanh như một “thiên la địa võng”cứ chực chờ giăng bẫy hạnh phúc của con người, có lẽ là hơi thần thánh hoá bản thân, hay là lí tưởng hoá con người. Nhưng với vị thế của Nguyễn Du, ông có thể làm gì đây? Khuyên người ta đứng lên lật đổ triều đại ư? Tư tưởng của một nhà Nho chính thống không cho phép ông làm như vậy. Vả lại, ông đã sáng tác Truyện Kiều bằng tất cả tình cảm yêu thương của ông đối với con người tài hoa bạc mệnh thì không lí nào ông lại để nó bị liệt vào loại “yêu thư, yêu ngôn”. Ông cũng không muốn tác phẩm của mình chỉ nhằm nói lên tâm sự của bản thân khi phải sống trong xã hội bấy giờ, hay chỉ mang một giá trị giáo dục nào đó. Ông cũng  không nghĩ nó chỉ có giá trị giúp người đọc “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Mà ông hy vọng nó sẽ mang lại một giá trị nhân sinh. Đó là triết lí về con đường con đường giải thoát – tu tâm.
Chữ tâm là một khái niệm chung, tâm có tâm ác, có tâm thiện. Chữ tâm mà Nguyễn Du muốn nói là thiện tâm, cái tâm tốt đẹp. Người có tâm tính tốt đẹp luôn giành được sự yêu mến của mọi người, do đó mà những người có tâm tốt đẹp luôn hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nên chữ tâm là phần cốt yếu của con  người, còn tài chỉ là cái phụ. Nhưng làm thế nào để có cái tâm tốt đẹp?
Theo quan niệm phương Đông, để có tâm tính như thế thì con người không ngừng tu sửa bản thân. Nho, Phật, Lão đã đề ra những phương pháp tu tâm khác nhau, nhưng cả ba học thuyết đều có chung một ý tưởng, đó là “diệt dục”, diệt trừ những ham muốn trong con người chúng ta.
Theo Nho giáo, cái tâm ham muốn sẽ khiến chúng ta làm điều xằng quấy. Càng tiết chế dục vọng, không cho nó khởi phát thì cái tâm ta càng không bị dục vọng sai khiến, càng dễ giữ được cái tâm trong sạch.
Theo Lão giáo, dục vọng sẽ làm cho người ta khởi tâm ham muốn, đã ham muốn thì con người sẽ bằng mọi cách để thoả mãn dục vọng. Như vậy, vì lợi ích riêng tư, họ có thể tranh giành nhau, hãm hại nhau, làm khổ nhau.
Còn Phật giáo thì cho rằng dục vọng làm người ta si mê, cứ ngỡ lợi là thực lợi, cứ ngỡ danh là thực danh, không ý thức được cuộc đời là cõi phù sinh, cố tranh giành, đắm chìm trong ảo vọng để cứ mãi bị trói vào vòng khổ ải luân hồi.
Có lẽ, Nguyễn Du tâm đắc với quan niệm của nhà  Phật. Ông cho rằng, Vân sở dĩ không đau khổ là do nàng sống theo khuôn khổ, không dục vọng cá nhân; còn Kiều sở dĩ khổ đau là do Kiều có cái lòng dục vọng mà thể hiện là Kiều có cái ý thức quá lớn về chữ “thân” và lại vướng vào chữ “tình”.
Tại sao ý thức về thân mà phải khổ?
Theo Trần Đình Sử, thân là cái phần quý giá nhất, có thân mới có con người, có phúc phận. Cuộc đời lưu lạc của Kiều là chuỗi ngày đày đoạ tấm thân. Ý thức về thân là ý thức về cái phần  cá nhân riêng tư nhất, thực tại nhất của con người. Theo nhà Phật thì “thân nghiệp” là nguyên nhân gây nên cái khổ lớn nhất của con người (những nghiệp gây nên nỗi khổ con người gồm: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp). Con người càng ý thức về thân thì càng đau khổ khi tấm thân bị đày đoạ. “Truyện Kiều là một truyện thương thân, xót than thấm thía nhất” [18;112]:
-Đau lòng tử biệt sinh ly,
Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên.
-Trùng phùng dù hoạ có khi
Thân này thôi có còn gì mà mong!
-Nàng rằng trời thẳm đất dày
Thân này đã bỏ những ngày ra đi!
-Rằng tôi bèo bọt chút thân
-Thân lươn bao quản lắm đầu,
Tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa!
-Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân.
-Cửa người đày đoạ chút thân
-Chút thân quằn quại vũng lầy
-Thân sao thân đến thế này
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi.
-Đã không biết sống là vui,
Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!

Theo tinh thần Phật giáo, con người mang lấy thân tức là mang lấy thất tình (ai, lạc, hỉ, nộ, ái, ố, dục), nghĩa là những hạt giống của si mê, giận hờn, ganh tị (tham, sân, si). Tất cả những điều này làm cho ta “vô minh”. Phật dạy vô minh tức khổ.
Cái khổ của Kiều được giải thích bằng cái nhìn Phật học qua lời phát biểu của Tam Hợp Đạo Cô:
Sư rằng: “Phúc hoạ đạo trời,
Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra”.
Mọi tai nạn, mọi may mắn đều do trời quyết định. Tuy nhiên, cỗi nguồn là do chính bản thân của mỗi con người. Nếu chúng ta không có cái tâm tịnh bụi trần, lúc nào cũng chứa nhiều phiền não và u mê, cũng bị thất tình chi phối thì tất yếu sẽ dẫn đến khổ đau. Kiều khổ do số phận đã đành, hơn nữa:
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Chữ “tình” đơn giản mà rắc rối. Ngỡ chẳng có gì khi đã là con người thì lòng mang nhiều tình  cảm cũng là lẽ thường. Nếu chữ “dục” thuộc về con người bản năng thì chữ “tình” thể hiện con người xã hội. Sư Tam Hợp đã từng buộc Kiều là do mắc phải chữ tình:
Vậy nên những chốn thong dong,
Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Lại tìm những chốn đoạn tràng mà đi.
Kiều đã tự mình làm khổ mình. Kiều đã không giữ được cái tâm thiền định nên ngay cả những chốn thong dong đáng lí được tự do hạnh phúc, được thoát khổ mà Kiều vẫn ngồi không yên, đứng không ổn. Do cái tâm của Kiều không kiên định nên những con ma dục vọng cứ lôi kéo nàng vào vòng khổ hạnh. Cho nên, Kiều phải chịu:
Hết nạn nọ, đến nạn kia,
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.
Trong vòng giáo dựng gươm trần
Kề răng hùm sói, gởi thân tôi đòi.
Giữa dòng nước chảy sóng dồi,
Trước hàm rồng cá, gieo mồi băng tinh.
Oan kia theo mãi với tình,
Một mình mình biết, một mình mình hay.
Làm cho sống đoạ thác đày,
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi.
            Những lời kết án này, quả là lời của một đạo cô – người đã dứt bỏ được lòng phàm. Không một chút đồng cảm, đạo cô đã kết luận rằng nàng sẽ khổ suốt đời. Cái án này không phải chỉ do định mệnh tuyên đọc mà còn bởi Kiều chưa biết nắm lấy tâm mình để tìm nẻo thoát, cứ bị “những sợi dây tình vướng víu kéo đi”(Xuân Diệu).
Lý thuyết nhân quả trong Truyện Kiều có nghiệp quá khứ, có duyên tiền định nhưng không phải cái nghiệp quá khứ và duyên tiền định ấy chịu trách nhiệm hoàn toàn về 15 năm đau khổ của Kiều. Chính bản thân Kiều cũng có trách nhiệm. Tài, sắc và tình của Kiều cứ mãi ràng buộc nàng, làm cho nàng mãi mắc vào cái vòng luẩn quẩn của sự khổ đau mà không tìm ra nẻo thoát. Điều đó được cực tả trong câu:
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường,
Lại tìm những chỗ đoạn trường mà đi.
            Cố nhiên, khi bước vào chốn thanh lâu, mình bị kéo theo, đau khổ cũng đành rồi. Nhưng khi được bước vào những hoàn cảnh thanh thản như ở chùa mà Kiều vẫn không an lạc, không có khả năng an lạc. Bởi vì Kiều vẫn khư khư giữ lấy tài, sắc, tình và không nắm được cái tâm tu học để chuyển hoá, thoát khỏi vòng luân hồi. Nên 15 năm đau khổ kia do yếu tố khách quan mà cũng do nguyên nhân chủ quan Kiều tạo ra.
Kiều như một người giác ngộ sau bao nhiêu năm tháng si mê, lầm lạc. Trước đây nàng cũng cho rằng nỗi khổ của mình là do trời định, do cái luật thừa trừ của tạo hoá gây nên. Vì thế mà Kiều cố chống đối lại. Nhưng thất bại và khổ đau khiến nàng bất lực trước số mệnh. Kiều chỉ còn nhận mọi phần tội lỗi là do mình bằng lời lẽ thật xót xa:
Phong trần kiếp đã chịu đày,
Lầm than lại có thứ này bằng hai!
Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan!
Đã đành túc trái tiền oan,
Cũng liều ngọc nát, hoa tàn mà chi!
            Lúc này thì Kiều chỉ biết nỗi khổ ấy là do cái nghiệp quá khứ, do cái nợ kiếp trước của bản thân (trái tiền oan) gây ra.Nhưng trải qua thời gian gần nửa đời người, trải qua nhiều lần “oan khổ lưu ly”, trôi nổi, chia lìa, cuối cùng Kiều cũng nhận ra:
Có trời mà cũng tại ta,
Tu là cõi phúc, tình là dây oan.
Quả thật nếu không có kinh nghiệm trực tiếp từ những đau khổ kia thì Kiều khó mà nhận ra điều đó. Trước đây, tuổi trẻ Kiều rất bướng bỉnh. Kiều thừa biết “bạc mệnh khúc” khi đàn lên thì “Cực lòng mình cũng nao nao lòng người” nhưng nàng vẫn thích đàn. Khi Kim Trọng khuyên nàng đừng nên đàn bản ấy thì Kiều lại biện hộ bằng những lời lẽ đầy cá tính:
Rằng: “Quen mất nết đi rồi,
Tẻ, vui âu cũng tính trời biết sao!
Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
Hoạ dần dần bớt chút nào đựơc chăng.”
            Nàng hứa thế chứ nàng vẫn giữ nó suốt 15 năm. Đến cuối cùng nàng bất lực mà thừa nhận “Ăn năn thì sự đã rồi”.
Kiều biết mình “vô minh” nên khổ. Nhưng theo đạo cô thì cái khổ ấy không phải không giải trừ được.
Sư rằng: “Song chẳng hề chi,
Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều.
Xét trong tội nghiệp Thuý Kiều,
Mắc điều tình ái, khỏi điều tà dâm.
            Đó là một điểm son của Kiều. Nàng vướng vào điều tình ái là phạm giới nhưng “khỏi điều tà dâm” là tránh được nghiệp chướng. Và cái nghiệp ấy so với công đức của nàng thì công đức ấy còn nhiều:
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm,
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
Hại một người cứu muôn người
Biết đường khinh trọng, biết lời phải chăng.
            Tất cả điều này đã giải trừ nghiệp chướng của nàng. Nhờ tâm giữ giới, tâm hiếu nghĩa, tâm từ bi mà thiện nghiệp được tạo ra, nhờ thế Kiều mới có cảnh đoàn viên, sum vầy với gia đình và Kim Trọng.
Trải qua 15 năm lưu lạc, chứng kiến với bao sự đời, tiếp xúc với bao hạng người, Kiều cũng chỉ nhận ra một triết lý “ở hiền gặp lành” hay “tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác”, gieo nhân gì thì gặt quả ấy. Kiều mới giác ngộ được nỗi khổ là do ngoại giới gây nên chứ chưa thật sự tin rằng một phần là do tâm của mỗi con người. Điều này thể hiện ở chi tiết nàng tu vì tuyệt vọng với đời, nàng không tìm thấy hạnh phúc hay mục đích sống nên mới “đem mình bỏ am mây”, chứ không phải vì nàng giác ngộ triết lý cao thâm của Phật. Nàng tự nhận rằng:
Đã đem mình bỏ am mây,
Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừa.
Mùi thiền đã bén muối dưa,
Màu thiền ăn mặc đã ưa âu sồng.
Sự đời đã tắt lửa lòng,
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
Dở dang nào có hay gì,
Đã tu , tu trót qua thì thì thôi!
Trùng sinh ân nặng biển trời,
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
Nghĩa là nàng vì “lỡ tu, tu trót” chứ trong lòng không hề muốn dứt bỏ đường trần, dứt tình riêng tư. Vì thế khi nghe lời Vương ông khuyên giải:
Ông rằng: “Bỉ thử nhất thì,
Tu hành, thì cũng phải khi tòng quyền.
Phải điều cầu Phật, cầu Tiên,
Tình kia, hiếu nọ ai đền cho đây?
Độ sinh nhờ đức cao dày,
Lập am, rồi sẽ rước thầy ở chung.”
Kiều không còn lý do từ chối:
Nghe lời nàng phải chiều lòng,
Giã sư, giã cảnh, đều cùng bước ra.
Và đến khi bị buộc phải nối duyên với Kim Trọng, Kiều đã từ chối vì thấy mình không còn xứng đáng chứ không phải cái tâm của nàng đã tịnh bụi trần.
Nàng rằng: “Gia thất duyên hài,
Chút lòng ân ái, ai ai cũng lòng.
Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
Hoa thơm phong nhị, trăng vòng tròn gương.
Chữ trinh đáng giá ngàn vàng,
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng khi xưa.
Thiếp từ ngộ biến đến giờ,
Ong qua, bướm lại đã thừa xấu xa.
Bấy chầy gió táp mưa sa,
Mấy trăng cũng khuyết, mấy hoa cũng tàn.
Còn chi là cái hồng nhan,
Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?
Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
Dám đem trần cấu dự vào bố kinh!
Đã hay chàng nặng vì tình,
Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
Kiều theo Giác Duyên tu hành không phải tầm đạo mà tìm chốn an thân. Dù Kiều “đem mình bỏ am mây”, ăn mặc theo thiền nhưng cái tâm Kiều chưa thật sự giác ngộ. Xưa nay nàng chỉ bị hành hạ về cái “thân” nên nàng chỉ mới nghĩ đến và biết đến giải khổ cho “thân”. Đến đêm hôn lễ này thì nàng mới thật sự cảm nhận được thế nào là “khổ tâm”. Trước đây, Kiều nghĩ đoàn viên với người thân, hội ngộ với gia đình là điều hạnh phúc lớn nhất của đời nàng, là mục đích sống thúc giục nàng vượt qua gian nan. Nhưng nay Kiều mới nhận ra cuộc đời là một chuỗi khổ đau, khi trọn nguyện ước rồi mà Kiều còn đau khổ. Vì Kiều tự nhận mình không còn xứng đáng với Kim Trọng nên thấy thẹn vô cùng:
Nói chi kết tóc se tơ,
Đã buồn cả ruột, mà nhơ cả đời.
Cho nên:
Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu mà cũng như tu mới là.
Kiều biết tâm mình còn cố chấp không thể làm ngơ với khổ đau. Đó là quy luật tâm lý bình thường. Bất kì vết thương nào dù lành lặn cũng để lại cho người ta vết sẹo, vết thương càng nặng vết sẹo càng sâu. Huống hồ tâm hồn Kiều đã biết bao lần bị tổn thương, thử hỏi làm sao Kiều có thể xem như không việc gì? Với Kiều, việc ái ân cùng Kim Trọng sẽ làm Kiều không thể nào quên được cái hồi ức khủng khiếp kia. Như thế thì:
Còn tình đâu nữa, là thù đấy thôi.
Cho nên Kiều thà phụ lòng chàng:
Người yêu ta xấu với người,
Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
Thà rằng phụ nhau để cái tâm Kiều được hoàn toàn yên tịnh. Đó là bước đầu của việc tu tâm. Đã vứt bỏ được tình, không còn nỗi lo, Kiều thấy lòng mình thanh thản vô cùng. Cho nên tiếng đàn của nàng “Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy”:
Phím đàn dìu dặt tay tiên,
Khói trầm cao thấp, tiếng thuyền gần xa.
Khúc đâu đầm ấm dương hoà,
Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình!
Ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu nhỏ duềnh quyên!
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
Lọt tai nghe suốt năm cung,
Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
……
Cho hay thục nữ chí cao,
Phải người sớm mận tối đào như ai?
Hai tình vẹn vẽ hoà hai,
Chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ.
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên.
Ba sinh đã phỉ lời nguyền,
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
Như vậy, Kiều đã có hạnh phúc thật sự với cuộc sống giản dị bên gia đình. Kiều đã có cuộc sống hoàn toàn tự do, tâm hồn hoàn toàn thanh thản. Niềm vui đời thường ấy gần với lối sống lí tưởng của Lão giáo, nhưng là kết quả của một quá trình giác ngộ Phật học.
Mặc dù không phải là người tinh thông Phật học nhưng không phải Nguyễn Du không có tuệ giác của đạo Phật. Tuệ giác của ông lớn lắm không phải do học Phật mà có, mà do tiếp thu tư tưởng văn hoá dân tộc, nhất là kinh nghiệm sống thực tế. Cho nên, Truyện Kiều là sự kết tinh của những tư tưởng thời đại Nguyễn Du. Ở thời đại này, có rất nhiều người tin theo thuyết định mệnh. Các nhân vật trong Truyện Kiều cũng thế, Thuý Vân tin đến mức trở thành con rối của định mệnh, Đạm Tiên tin đến nỗi trở thành nhân vật chức năng – sứ giả của Hội chủ Hội đoạn trường, Kiều thì tin với một thái độ bất lực. Qua đó, ta thấy Nguyễn Du tin định mệnh ở một mức độ nhất định. Nhưng thuyết định mệnh ở Nguyễn Du đã bị chi phối rất nhiều bởi luật nhân quả, nghĩa là định mệnh nhưng có thể thay đổi được nhờ vào sự nỗ lực của chính bản thân con người. Ông giải thích nỗi khổ của con người do nhiều nguyên nhân, do tạo vật đố toàn, do định mệnh an bài, do nghiệp báo tiền duyên. Trong đó, nguyên nhân sâu xa là do xã hội đem đến. Ông phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội nhưng không đi đến đấu tranh “thay đổi sơn hà”. Tư tưởng này vừa mang tính cải lương vừa thể hiện thái độ không đồng tình của Nguyễn Du đối với chiến tranh, minh chứng là ông để Từ Hải bị triều đình tiêu diệt. Ông khuyên con người phấn đấu làm việc tốt, tu dưỡng tâm hồn, sống hoà đồng và nhân hậu với mọi người. Đây là quan niệm của nhà Phật cũng là mơ ước của nhân dân. Quan niệm này khẳng định giá trị tích cực của Truyện Kiều. Giá trị này không chỉ dừng lại ở đây mà nó còn được khẳng định nhờ giá trị luân lí đạo đức.
2. Giá trị Truyện Kiều đạt được khi tiếp biến các hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão trong xây dựng hình tượng nhân vật:
Truyện Kiều là một tuyệt tác văn học. Giá trị của nó không dừng lại ở lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ hay tư tưởng tác phẩm. Tuy vậy, tác phẩm vẫn có một vài hạn chế về tư tưởng. Mặc dù  hạn chế ấy không ảnh hưởng đến giá  trị chung của tác phẩm nhưng qua đó ta thấy được sự phức tạp trong tư tưởng và những quan niệm nhân sinh của tác giả.
2.1 Những phức tạp trong tư tưởng Nguyễn Du khi xây dựng hình tượng nhân vật :
Nguyễn Du và Thuý Kiều là hai người cùng cảnh ngộ, cũng từng trải qua cơn gia biến. Nhưng cơn gia biến của Kiều chỉ làm thay đổi hoàn cảnh sống của một gia đình, còn cơn gia biến của Nguyễn Du gắn liền với một cuộc thay đổi sơn hà. Những cuộc bể dâu mà Nguyễn Du gặp còn nhiều hơn Kiều, những oan khổ mà Nguyễn Du gặp phải còn nhiều gấp mấy lần Kiều. Trong 20 năm (1782 -1802) đã có bốn triều đại thay nhau trị vì xã tắc: Trịnh, Lê, Tây Sơn, Nguyễn. Nguyễn Du là nhân chứng lịch sử, ông chứng kiến tất cả các cuộc bể dâu đó. Hết triều đại này hưng thịnh rồi suy vi đến triều đại khác, nó cứ diễn ra tuần hoàn như thể là một quy luật được định sẵn ở giới tối cao. Cho nên, ông tin vào định mệnh. Hơn nữa, nhìn thấy cuộc sống của bao con người trong xã hội cứ như một trò ảo thuật “thoắt ẩn rồi thoắt hiện”, mới thấy đó thì không còn như thế nữa, một triều đại mà chỉ trị vì có vài năm… Tất cả càng làm ông tin vào Phật giáo với tâm tưởng cuộc đời là bể khổ, cõi đời là cõi phù sinh. Đời là vậy, thế mà có biết bao người cứ mãi đắm chìm trong ảo vọng cứ ngỡ danh là thực danh, lợi là thực lợi nên cố tranh giành để rồi phải tạo nghiệp chướng. Chi bằng vứt bỏ những điều ham muốn kia, theo Lão Tử tìm một lối sống an lành.
Do vậy, Nguyễn Du mặc dù là nhà Nho chính thống nhưng trong Truyện Kiềucũng như thơ chữ Hán đều chịu sự chi phối của cả ba tư tưởng Nho, Phật, Lão.
Như việc giải thích về nguyên nhân nỗi khổ của Kiều, lúc thì ông cho rằng Kiều khổ do số hồng nhan bạc phận theo quy luật biến đổi âm dương, tạo vật đố toàn của Lão giáo. Với thuyết này, Kiều khổ là để cân xứng với tài sắc nàng mang. Điều này tồn tại như một quy luật:
Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Lúc thì ông lại cho rằng, Kiều khổ do định mệnh. Cái khổ của Kiều là do đấng tối cao an bài. Với tư tưởng này, con người an phận theo cái phúc phần mình được hưởng và chấp nhận cái phần số của mình không than van.:
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Lúc thì ông bảo, Kiều khổ do nghiệp báo luân hồi, do kiếp trước tạo nghiệp nên kiếp này phải trả:
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Cũng có lúc ông bảo, Kiều khổ do mang cái tâm dục vọng, cái tâm không kiên định, lòng nhiều ham muốn nên khổ:
Lại mang lấy một chữ tình,
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
Vậy nên ở chốn thong dong,
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Lại tìm những chỗ đoạn tràng mà đi.
Điều này càng thể hiện rõ ở đoạn kết câu chuyện. Đến đoạn này, tư tưởng Nguyễn Du như đã thực sự trải qua mười lăm năm  rèn luyện và đã chứng kiến nhiều cuộc bể dâu. Cho nên, tư tưởng ông không còn thuần nhất tuân theo bất cứ một học thuyết nào mà nó là sự phức hợp, sự tiếp biến các tư tưởng của thời đại:
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia bắt phải làm người có thân.
Bắt phong trần, phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Có đâu thiên vị người nào,
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. 
Ở đoạn kết này, ta thấy rõ sự phức tạp trong tư tưởng Nguyễn Du. Ông đã giải thích nỗi khổ của Kiều do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhưng một nguyên nhân mà ông luôn trốn tránh, đó là nguyên nhân của thực tại xã hội lúc bấy giờ. Ông không hề kết án chế độ. Có lẽ ở thời đại Nguyễn Du, tư tưởng tiến bộ nhất là lật đổ triều đại để thay một vì vua vô minh bằng một vị minh vương mà thôi, nhà thơ chỉ mới nhận ra tính phản động của xã hội chứ chưa nhận ra sự mục ruỗng của chế độ. Còn sự tàn nhẫn của xã hội đối với hạnh phúc của con người, Nguyễn Du chỉ để cho cuộc đời của các nhân vật mình làm minh chứng chứ ông không hề có lời bàn luận nào thêm. Đối với ông, mọi lời bàn luận đều trở nên thừa, vì sự thật đã quá hiển nhiên. Ông cũng hiểu có điều không nên nói, có điều muốn nói thì không biết nói thế nào. Sở dĩ có điều này là do ông mang tâm trạng hoang mang, bế tắc, thế giới quan mang nhiều mâu thuẫn sinh ra từ mâu thuẫn của thời đại.
Cho nên, không thể xác định Truyện Kiều được sáng tác nhằm thể hiện tư tưởng của học thuyết nào. Thực chất là qua việc tiếp thu các học thuyết Nho, Phật, Lão, Nguyễn Du muốn thể hiện nhân sinh quan của mình. Nhân sinh quan ấy thể hiện rõ ở thái độ của ông đối với các học thuyết ấy.
Đối với Nho giáo, dường như Nguyễn Du cũng không đồng tình mặc dù ông xuất thân Nho giáo. Có lúc ông tin theo tinh thần thuận mệnh của Nho gia nên đã để nhân vật của mình sống theo sự sắp đặt của định mệnh. Một vài nhân vật có đời sống tâm hồn rất tầm thường, chỉ biết nhất nhất tuân theo mệnh. Nhưng ông cũng nhận ra Nho giáo chỉ biết dạy con người cố sống, cố hành động giúp ích cho xã hội, nhất là phải tuyệt đối trung thành , cống hiến cho triều đình, trong khi hạnh phúc cá nhân con người thì không được quan tâm. Kiều chỉ muốn có hạnh phúc bình thường, muốn giữ cái ý thích cá nhân của mình, muốn được tự do làm theo những gì mình yêu thích. Kiều chỉ muốn đàn bản nhạc thật bi ai để tâm hồn mình trải rộng ra đón nhận và đồng cảm với bao kiếp người khổ ải trong cuộc sống. Thế mà cái ước muốn nhỏ nhoi ấy lại không thể thực hiện. Cuộc đời thật trớ trêu, nó đã đày đoạ nàng đến mức nàng sợ hãi tất cả những gì đau thương. Nàng không còn dám nghĩ đến việc chống đối lại với bất cứ điều gì. Cái sở thích đã thành nết, thành tật rồi mà nàng còn còn phải từ bỏ. Kiều phải nghẹn ngào thú nhận “Ăn năn thì sự đã rồi”.
Cho nên, với luân lí tốt đẹp của Nho giáo, Nguyễn Du ghi nhận để phát huy còn với tính chất phản động của nó thì ông cũng tô đậm lên để phê phán một cách triệt để.
Còn với Lão giáo, chủ nghĩa tự nhiên chỉ là thứ thuốc giảm đau cho các vết thương tâm hồn. Lão Tử thấy được quy luật của sự chuyển hoá mâu thuẫn nhưng ông không chủ trương phát triển mâu thuẫn, giải quyết mâu thuẫn mà lại chủ trương ngăn cản mâu thuẫn phát triển, mong muốn giữ nguyên hiện trạng ấy. Vận dụng quan điểm này vào sinh hoạt xã hội, Lão Tử cho rằng người ta nên biết đủ, không tranh giành, có như vậy mới mong bảo toàn sinh mạng, tránh được những điều nguy hại. Với triết lý sống như thế con người trở nên thụ động, xã hội sẽ không tiến triển. Nguyễn Du không chấp nhận cái lý tưởng sống đó. Và ông đã bổ khuyết cho tư tưởng ấy bằng triết lý tu tâm của nhà Phật. Nghĩa là, con người phải nhận ra mâu thuẫn ấy, phải chấp nhận số kiếp “hồng nhan bạc phận”, “tài mệnh ghét nhau” vì đó là quy luật. Nhưng quy luật ấy không phải bất biến, nó sẽ được thay đổi nếu chúng ta tích cực làm việc thiện, điều này gần với quan niệm “ở hiền gặp lành” của nhân dân. Nhưng tư tưởng của ông gần với tinh thần Phật giáo hơn. Ông cho rằng ta làm việc thiện thì có thể trả được nghiệp chướng mình gây chứ chưa hẳn là hết khổ, con người chỉ hoàn toàn thoát khổ khi biết từ bỏ dục vọng, tu tâm. Như thế thì ông chủ trương giải quyết mâu thuẫn xã hội bằng một triết lý duy tâm, kết quả là rèn luyện và hình thành nên con người có lòng Bồ Tát trong khi xã hội thì bất công tràn ngập. Do đó, đoạn cuối của truyện, nhiều người cho đó là một kết thúc gượng gạo. Nhưng thực ra đoạn đoàn viên này thể hiện sự kết hợp hài hoà tư tưởng tam giáo đồng quy trong tư tưởng Nguyễn Du. Đồng thời, đó cũng là mơ ước của Nguyễn Du. Đoạn đoàn viên này cũng làm  cho tác phẩm không rơi vào bi lụy, nó mang màu sắc lạc quan thích hợp với cảm quan nghệ thuật của người Việt Nam thời bấy giờ. Ngoài ra, nó cũng thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa tính lãng mạn và tinh thần hiện thực của tác phẩm.
Để nhận xét Truyện Kiều ta chỉ dùng một chữ “tuyệt”. Đứng về phương diện văn chương, tả tình, tả cảnh, ngay cả miêu tả tâm lý nhân vật, Truyện Kiềucủa Nguyễn Du là tuyệt hảo không chê vào đâu được. Tác phẩm là áng văn chương thanh tú và mĩ lệ. Còn về phương diện tư tưởng, ông không để tác phẩm mình rao giảng một cách giáo điều luân lý của chế độ, nhưng bài học luân lý thì trở nên bất diệt. Tác phẩm của ông không nhằm buộc tội chế độ nhưng bản chất chế độ lại bị lột trần. Ông luôn tôn trọng sự hoà hợp giữa tình người và lòng người, nghĩa là sự hoà hợp giữa con người cá nhân với con người xã hội và đề cao lòng nhân đạo, lòng trắc ẩn của con người. Cho nên qua Truyện Kiều, ta nhận ra nhiều bài học nhân sinh sâu sắc.
2.2 Triết lí nhân sinh Nguyễn Du muốn gởi gắm:
Bêlinxki từng nói: “Nghệ thuật không có tư tưởng như con người không có tâm hồn”. Và không có tư tưởng nào mà không mang ý nghĩa nhân sinh nhất định. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp thu hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, làm nổi lên giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của tác phẩm. Tuy nhiên, khi vận dụng các học thuyết này vào tác phẩm, nó cũng đem đến cho Truyện Kiều ý nghĩa nhân sinh có giá trị.
Truyện Kiều là triết lý về cuộc đời, ở đấy có những hình ảnh khổ đau, hạnh phúc và u mê, lầm lạc. Cuộc đời Kiều là sự tổng hợp mọi cảnh đời trong xã hội. Kiều từng là người con hiếu thảo, từng là người tình ngây thơ, là vợ lẽ, là con hầu, từng làm vợ người quyền thế, từng “kề vai” kẻ bất nhân, từng là người trung quân, từng là kẻ bất nghĩa, từng là mệnh phụ, từng là ni cô… Kiều đã trải qua cuộc sống với không ít ngày hạnh phúc, cũng không ít ngày đau khổ.
Mỗi con người chúng ta, ít nhất cũng một lần khổ đau, một lần thất bại hay một lần vấp ngã. Đọc Truyện Kiều, chúng ta sẽ tìm thấy sự đồng cảm xót thương cùng nàng Kiều. Nếu ai đó đã từng rơi vào một trong những  hoàn cảnh đau khổ như Kiều thì ắt hẳn sẽ không cầm được giọt nước mắt thương người, tủi phận. Còn những ai hạnh phúc, đường đời được trải gấm dệt hoa thì không thể nào không có lòng trắc ẩn khi thấy sự chống trả một cách yếu ớt của Kiều cùng  với số mệnh, với khổ đau để vươn lên tìm hạnh phúc. Đó là giá trị nhân sinh của Truyện Kiều.
Văn chương có tác dụng làm thanh lọc tâm hồn con người .Và nếu chúng ta có lòng học hỏi thì khi đọc tác phẩm ta sẽ học hỏi rất nhiều. Đọc Truyện Kiềubằng cái nhìn khách quan, cái nhìn quán xuyến, chúng ta sẽ học được những bài học của khổ đau và kinh nghiệm.
Nếu ai đó nghĩ rằng, ta sẽ học được gì khi Truyện Kiều chỉ là câu chuyện về cô gái giang hồ? Ta sẽ tiếp thu được những gì khi Truyện Kiều chỉ là sự thể hiện những giáo lý khô khan của Khổng Nho, trong khi thời đại tôn sùng Nho giáo đã là cái thời lắng sâu vào quá khứ, con người đã cố gắng chôn vùi nó thì còn khơi dậy làm gì? Còn Phật và Lão chỉ là cái giường ru ngủ, nơi dừng chân của những tâm hồn quá mỏi mệt thì có ý nghĩa gì trong xã hội tiến bộ ngày nay?
Ai đã từng nghĩ thế thì có lẽ chưa hiểu gì về tinh hoa các học thuyết ấy và chưa thực sự “cảm” Truyện Kiều. Thực ra, trong các học thuyết ấy thì học thuyết nào cũng nhằm đem đến cho con người cuộc sống tốt đẹp hơn, chỉ có điều là thực hiện bằng những con đường khác nhau mà thôi. Nho giáo chủ trương sống “nhập thế”, làm hết sức mình để giúp đời. Lão giáo chủ trương sống “vô vi”, không tranh giành để đạt được sự hoà hợp trong cuộc sống. Phật giáo dạy con người lòng thương yêu nhân loại để người với người kết nên một cuộc đời thật tốt đẹp dựa trên tình thương yêu lẫn nhau. Như vậy, cả ba học thuyết đều dạy con người phải có tinh thần thực tiễn, phải nhận thức được ý nghĩa cuộc sống và phải vượt qua những trở ngại trong cuộc đời để vươn lên tìm hạnh phúc.
Ta thấy cuộc đời Kiều trải qua bao thăng trầm sóng gió, có những lúc Kiều không chịu nổi khổ đau phải tìm đường tự vẫn. Nhưng xét kĩ ra, những lúc Kiều không chịu nổi là những lúc nhân phẩm Kiều bị chà đạp đến xót xa. Lần tự vẫn đầu là vì nàng không chịu được cảnh phải từ một cô gái khuê các trở nên một kĩ nữ. Lần thứ hai là lúc Kiều trốn tránh cảnh “Giết chồng mà lại lấy chồng”. Còn những lần bị hành hạ, bị giày vò, bị đay nghiến thì cũng không  thể nào làm tắt đi ý chí đấu tranh giành quyền sống, giành hạnh phúc cá nhân ở Kiều. Qua đó ta thấy, trong xã hội phong kiến, con người, nhất là người phụ nữ rất coi trọng nhân phẩm của mình. Điều này vừa khẳng định giá trị nhân văn của thiên truyện, đồng thời cũng khẳng định giá trị cuộc sống của con người. Con người phải biết vươn lên mọi hoàn cảnh để bảo vệ sinh mạng của mình, tìm ra ý nghĩa cuộc sống của mình.
Những lúc nào đó chúng ta thất bại, chúng ta khổ đau, chúng ta tuyệt vọng, ta hãy nghĩ đến Kiều. Trong khi Kiều chỉ là một cô gái yếu ớt phải chống trả với mọi thế lực tàn bạo trong xã hội trong suốt 15 năm đau khổ, thì chúng ta sao lại không tin vào khả năng của mình? Truyện Kiều đã cổ vũ tinh thần chúng ta, khuyên chúng ta không nên bi quan với cuộc sống, định mệnh còn có thể thay đổi thì hoàn cảnh sống không lí nào lại bất biến. “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Mọi chuyện “Có trời mà cũng có ta”, nghĩa là mọi khổ đau do nguyên nhân khách quan đem đến nhưng một phần nỗi khổ cũng là do con người luôn than phiền nỗi khổ, trốn tránh nó để rồi nó cứ mãi đuổi theo.
“Ôi! Núi xanh vốn không già, vì tuyết mà bạc đầu.
         Nước xanh vốn không sầu vì sóng mà nhăn nheo”. [14;7]
Con người ta vốn tự do tự tại, không lo sầu thì phiền não từ đâu mà đến, khổ sầu từ đâu mà ra? Phải chăng do ngoại cảnh đem đến, như tuyết làm bạc đầu ngọn núi, như sóng làm mặt nước nhăn nheo?
Thế nhưng, nếu không có ngoại cảnh thì có chắc con người đạt được hạnh phúc? Trong khi Phật dạy, đời là bể khổ, khổ sầu của con người là do sinh, lão, bệnh, tử, sở cầu bất đắc, ái biệt ly… gây ra. Những khổ đau ấy làm cho con người cảm tưởng hạnh phúc cá nhân luôn mâu thuẫn với cuộc đời. Nhưng nếu chúng ta không giải quyết mâu thuẫn ấy thì mâu thuẫn càng tăng, còn chúng ta sẽ không tiến bộ. Cho nên, sống là chấp nhận khổ đau, chấp nhận thất bại, không chỉ dừng lại ở chấp nhận mà phải đấu tranh để giải quyết nó. Ta thấy, Kiều là một cô gái yếu đuối nhưng tinh thần vươn lên, ý thức về nhân phẩm lại mãnh liệt. Kiều ý thức được nỗi khổ của mình và ý thức được chính mình mới là người giải trừ nỗi khổ ấy, Kiều không hề trốn tránh nó:
Kiếp này trả nợ chưa xong,
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau.
Kiều nghĩ sống là để trả nợ kiếp trước. Cho nên trốn nợ bằng cái chết là hèn nhát, là càng chồng thêm nợ. Vì thế, khi Kiều trốn cùng Sở Khanh bị Tú Bà bắt lại và buộc phải tiếp khách, nàng không thể tự tử vì tự tử là nàng mang thêm nợ. Tú Bà bỏ tiền mua Kiều nhưng trá hình bằng trò cưới lẽ. Kiều đã vịn vào cớ này để từ chối tiếp khách. Nay lại trốn theo Sở Khanh, bị bắt, đuối lí nàng đành chấp nhận “Chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa”. Kì thực, nàng có thể tự tử vì chết là hết. Nhưng nàng không làm thế. Kiều sợ chết ư? Lý do này vô lí. Kiều sợ họ làm khó gia đình ư? Họ không có cái lí để làm điều đó. Nhưng Kiều chấp nhận tủi nhục vì nàng là người hiểu đạo lý.
Qua Truyện Kiều, ta nhận ra nghệ thuật ứng xử của con người với gia đình và xã hội. Nghệ thuật ứng xử ấy không phải thể hiện ở triết lí khô khan của Khổng Nho – nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Cũng không phải là lòng Bồ Tát, vị tha của đạo Phật. Lại càng không phải là tính khiêm tốn đến “vô vi” của Lão giáo. Nó chính là sự dung hợp những giáo lý của các học thuyết ấy. Như việc Kiều tha bổng Hoạn Thư là biểu hiện cái cái lí trí sáng suốt, suy xét đến ngọn nguồn của sự vật (cách vật chí tri) kết hợp với lòng vị tha, sẵn sàng bỏ lỗi cho người biết “tri quá” cùng với tính cách khiêm tốn không ra oai với kẻ thù. Tất cả những điều đó như xuất phát từ các học thuyết Nho, Phật, Lão nhưng lại chính là đạo lí của người Việt Nam. Người Việt Nam không có cách ứng xử ủy mị như nếu người ta tát vào má bên phải của mình thì chìa cái má bên trái cho người ta tát nốt. Cách ứng xử như lối của Kitô giáo ấy không phù hợp với tính cách chúng ta. Với người Việt Nam, nếu người ta tát mình một cái thì mình phải biết ngăn cản không cho họ có cơ hội tát thêm cái thứ hai chứ cũng không phải tìm cách tát lại. Gia đình Kiều bị bọn sai nha làm cho điêu đứng nhưng họ không tìm cách trả thù. Báo ân mà không gây oán là điều mà Truyện Kiều muốn thể hiện.
Khi cái lòng ta không thù oán, ta không có gì phải nghĩ suy, lúc đó ta mới thực sự sống thanh thản:
Đời ta yên lặng, không nghĩ quanh co,
Người đều lo sợ, ta vẫn không lo”.
Ngã sinh dĩ an, bất thích ư ưu,
Chúng nhân hữu ưu, ngã hành vô ưu).(Pháp cú kinh)
Dẫu rằng cuộc sống bắt chúng ta phải luôn đấu tranh với đau khổ, sống là để mưu cầu hạnh phúc. Nhưng nếu cứ vì hạnh phúc cá nhân, luôn tính toán thiệt hơn, để dục vọng lôi cuốn thì ta  sẽ luôn “Ở không an ổn, ngồi không  vững vàng”. Con người sẽ luôn thấp thởm, lo âu “ Thấy người nằm đó biết sau thế nào?”. Lo âu sẽ làm ta luôn sầu muộn, băn khoăn, bất ổn. Đó là tâm trạng của Kiều bởi nàng là người “thích ưu tư”, đa sầu, đa cảm;
Cho hay là giống hữu tình,
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong.
Còn chúng ta, ta hãy nhìn lại cuộc sống của mình, bộn bề những lo toan, những cạnh tranh trong xã hội, tất cả chỉ làm cho chúng ta thêm mỏi mệt. Rồi một ngày nào đó ta thất bại, ta bế tắc, ta khổ đau. Những lúc ấy có khi nào ta tự hỏi: Cuộc sống của chúng ta từ đâu đến? Giá trị của đời sống là gì? Mục đích của cuộc sống là ở chỗ nào?
Những lúc này, ta hãy tạm quên điều ấy đi, lắng nó xuống tận đáy của dòng suy tưởng, hãy mở Truyện Kiều để tìm thấy triết lí sống của Kiều. Rồi hãy nhìn lại cuộc sống, có mấy ai không đau buồn, tủi khổ, sướng vui, hạnh phúc. Tất cả những điều đó làm nên cuộc đời. Cuộc đời là thế đấy! Ai cũng muốn mọi cái tốt lành đều đến với mình nhưng đâu phải  lúc nào cũng đạt được. Muốn ước mơ được thực hiện, con người phải không ngừng phấn đấu, nỗ lực thậm chí phải chịu đựng tất cả những khổ đau và vượt qua nó bằng tinh thần kiên định.
Nếu chẳng một phen sương lạnh buốt
                        Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.
(Thiền sư Hoàng Bá Hy Vân).
Hạnh phúc của chúng ta không ở đâu xa. Xác định được mục đích cuộc sống đã là hạnh phúc. Vì nếu ta có mục đích sống ta sẽ có nghị lực vượt lên trên khổ đau để sống. Người Việt Namcũng như người Trung Hoa không có ý niệm sống để rửa tội, để sau khi chết rồi được sung sướng. Quan niệm đó của Kitô giáo họ không thể hiểu nổi, còn chúng ta ngày nay cũng chưa hẳn đồng tình. Người Việt Namchúng ta không có quan niệm sống để đạt tới cảnh Niết Bàn vì quan niệm  Niết Bàn huyễn hoặc quá. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du cho ta biết mục đích chân thực của đời sống là tìm cái vui trong những sinh hoạt đời thường, sống hoà hợp với gia đình và xã hội bằng một tâm hồn thanh thản, thoải mái. Đó là giá trị đích thực của Truyện Kiều.





3. Tư tưởng Nho giáo, Phật giáo trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
3.1. Tưởng Nho giáo trong Truyện Kiều
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam. Khi tiếp nhận tác phẩm này rất nhiều nhà nghiên cứu đề cao giá trị nhân văn của tác phẩm: Nguyễn Du đã vượt qua những ràng buộc của Nho giáo để ngợi ca tình yêu tự do, ngợi ca hạnh phúc riêng tư của con người. Tất nhiên đó là những kết luận không thể phủ nhận được. Nhưng là một sản phẩm của ý thức hệ phong kiến, sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, bản thân lại từng làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, Nguyễn Du không thể không ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo. Sự ảnh hưởng ấy được ông thể hiện khá rõ trong việc lí giải số phận của nhân vật chính - Thúy Kiều bằng thuyết thiên mệnh. Nguyễn Du cho rằng mọi khổ đau tủi nhục của Kiều đều do trời định. Nhà thơ đã nhiều lần nói đến trời, đến thiên mệnh như các nhà kinh điển của nho gia. Trong Truyện Kiều tư tưởng thiên mệnh ấy được tác giả thể hiện dưới dạng"tài mệnh tương đố'', "hồng nhan bạc mệnh".
Trong Truyện Kiều mâu thuẫn giữa tài và mệnh tập trung ở nhân vật nàng Kiều. Để hiểu được mâu thuẫn này thì phải nhận thức được thế nào là tài, thế nào là mệnh. Tài là tài năng, nhan sắc, là những gì tốt đẹp của con người. Tài là một giá trị thực tại. Số mệnh là một thực thể siêu hình, nó không tồn tại và không có hiệu lực thực tại nhưng ở Truyện Kiều mệnh có một vai trò to lớn: " chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau".
Tác giả đã nhận thức nỗi khổ của Thúy Kiều với một ý nghĩa siêu hình, bản chất số phận của nàng là mâu thuẫn giữa tài và mệnh. "Tài mệnh tương đố" là niềm tin của tác giả. Những lực lượng tàn phá cái hay, cái đẹp đều được nhà văn khái quát thành số mệnh. Bởi theo thuyết thiên mệnh của Nho giáo, người ta giàu nghèo sướng khổ là do trời định trước :"tử sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên". Người ta bằng kinh nghiệm ở đời, theo hướng duy tâm thần bí để suy ra rằng, sở dĩ có điều bất bình là đạo trời vốn gét cái trọn vẹn ("tạo vật số toàn/ tạo hóa kị doanh") :
"Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời xanh quyen thói má hồng đánh ghen"
Tài hoa thì bạc mệnh! Đó là mệnh đề mà tác giả đã chứng minh bằng cuộc đời của Thúy Kiều. Kiều được miêu tả như một ngưòi đẹp toàn diện. Sắc đẹp ấy, tài năng ấy đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió bởi: "rằng hồng nhan tự thủa nào/ cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu''. Hay ẩn trong "tài" chính là "họa" :"chữ tài liền với chữ tai một vần"
Mệnh đề ấy còn được Nguyễn Du cụ thể hóa ở nhân vật Đạm Tiên. Đạm Tiên cũng là người con gái đẹp, tài năng"nổi danh tài sắc một thì" nhưng:
"Kiếp hồng nhan có mong manh
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương".
Nhìn chung, Nguyễn Du cắt nghĩa cái đau khổ của Thúy Kiều hay cái đau khổ của cuộc đời nói chung thông qua nàng Kiều là do mâu thuẫn giữa tài và mệnh. Tư tưởng ấy dường như quán xuyến từ đầu đến cuối tác phẩm và được tác giả khái quát ở phần cuối tác phẩm:
"Ngẫm hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt nhầm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao được mới phần thanh cao
Có đâu thiên vị người nào"
3.2. Tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều
Bên cạnh việc vận dụng học thuyết Nho giáo, Nguyễn Du còn vận dụng học thuyết Phật giáo vào việc lí giải số phận nhân vật, bỏi vì dường như khi giải thích bằng thuyết thiên mệnh, ông vẫn chưa thực sự thỏa mãn, vẵn bị bế tắc. Vì thế Nguyễn Du đã tìm đến đạo phật. Ông dùng thuyết nhân quả và nghiệp báo của đạo phật mà giải thích số phận của nhân vật. Giáo lí nhà phật khẳng định: " nước bao giờ cũng chảy xuống, tham muốn và tình dục sẽ đưa con người vào vòng trầm luân đau khổ, từ đó đẩy con người vào nghiệp báo luân hồi". Sở dĩ Thúy Kiều có số phận mong manh như thế vì nàng có cái nghiệp tiềm ẩn bên trong, cái nghiệp tiềm ẩn từ kiếp trước:
"Kiếp xưa đã vụng đường tu
Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi
Dẫu sao bình đã vỡ rồi
Lấy thân mà trả nợ đời cho xong"
Chúng ta có thể tìm thấy rất nhiều câu thơ thể hiện thuyết nghiệp báo trên của đạo phật ở Truyện Kiều, nó thấm nhuần vào tư tưởng của nhân vật cho nên Kiều đã dự cảm được vận mệnh cuộc đời mình từ khi còn nhỏ:
"Kiếp này trả nợ chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau"
Dưới ánh sáng của nhân duyên học (từ dùng của đạo phật) , các quan điểm thiên mệnh đều ngã quị, không thể tồn tại mà xưng hùng xưng bá để dày đọa kiếp người. Con người khổ ải là do hành vi "thất niệm" của mình tạo ra từ trước cho nên không thể trách trời được:
"Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa"
Dựa vào thuyết nghiệp báo của đạo phật, chúng ta thấy rằng chết không phải là hết, chết là một sự thoát xác, thay đổi từ trạng thái sinh hoạt này sang một trạng thái sinh hoạt khác, khổ đau hoặc sung sướng hơn, tùy vào nghiệp của mình đã tạo ra ở kiếp trước. Người Việt Nam nói riêng và người Phương Đông nói chung đã hấp thụ tư tưởng này nên chúng ta không bao giờ tin chết là hết, chêt là mất hẳn. Có lẽ vì vậy nên người Việt thường có quan niệm rằng: con người sau khi chết thể xác tan rã nhưng tinh thần còn tồn tại. Thực ra đó là ảnh hưởng từ thuyết nghiệp báo của nhà phật. Kiều cũng đã tin như thế:
"Kiều rằng những đấng tài hoa
Thác là thể phách còn là tinh anh"
Để chứng minh cho lòng tin ấy, Nguyễn Du đã cụ thể hóa sự xuất hiện mờ ảo linh thiêng của Đạm Tiên trong buổi chiều thanh minh và những lần nàng hiện về báo mộng cho Kiều. Vì nhận thức chết là chưa hết nên khi trao duyên lại choThúy Vân, Kiều đã dặn em:
"Mai sau dẫu có bao giờ đốt
Lò hương ấy so hương phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu gió thì hay chị về"
Theo triết lí của đạo phật, ở đời không có cái gì tự nhiên mà có, ngẫu nhiên mà sanh. Sở dĩ nàng Kiều mang nghiệp báo là do một túc duyên tiền định.
Có người cho rằng nếu đúng như thuyết nghiệp báo và luật nhân quả (gây nhân nào gặp quả ấy) của đạo phật thì tại sao những người hiếu thảo, vị tha như Kiều vẫn chịu khổ. Thực ra, triết lí nhân quả của đạo phật chia làm nhiều thứ: nhân quả hiện tại, nhân quả nhiều đời, nhất thế nhân quả, tam thế nhân quả. Thân phận Thúy Kiều chính là biểu hiện của thứ nhân quả nhiều đời, thứ nhân quả được truyền từ kiếp trước. Trong Truyện Kiều còn hiển thị cả thứ nhân quả hiện tại. Những kẻ làm việc bạc ác tinh ma như Hoạn Thư, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh cuối cùng đều bị trừng phạt (thể hiện ở doạn thơ Kiều báo ân báo oán)
Vì muốn chứng minh một cách rõ ràng thuyết nhân quả - báo ứng là một định lí hiển hiện có thật và mọi người đều có thể được đáp ứng tương ứng với hành vi của mình đã tạo ra trong kiếp sống hiện tại, tác giả Truyện Kiều đã để cho kiều sống lại thoát khỏi oan kiếp tiền định ở sông Tiền Đường vì nàng biết rèn luyện tâm tính.
 Điểm đặc biệt của đạo phật chính ở chỗ phàm là con người dù tội lỗi bao nhiêu nhưng biết thành tâm sám hối, ăn năn thì có thể trở thành trong sạch được. Lối thoát của đạo phật là đi tu:"tu là cội phúc, tình là dây oan''. Kiều đã luyện đúng tinh thần của đạo phật, nhờ thế mới có cái hậu của Truyệnkiều, cái hậu ấy chính là sự sum họp với những người nàng yêu thương nhất. Trải qua mười lăm năm liu lạc, cuối cùng nàng đã đạt được ước nguyện đoàn viên. Mười lăm năm đoạn trường của nàng là bài học về khổ đế mà nguyên nhân vừa hợp với giáo lí, vừa hợp với tinh thần giới luật nhà phật là lòng khát ái, dục ái. 
Tư tưởng Phật giáo trong Truyện Kiều còn thể hiện ở quan niệm về chữ "tâm"
Trong kinh luận, Phật giáo thường chép:"tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" (ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới là do tâm, vạn pháp hữu hình, vô hình, tâm pháp, sắc pháp đều do thức tạo ra). Theo đạo phật, tâm là chủ thể của muôn sự muôn vật. Riêng đối với con người mọi vật đều do tâm thúc đẩy. Với Kiều tâm cũng quyết định mọi vui buồn và giá trị của đời sống:
"chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài".
Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp cả tinh thần từ bi bác ái, vị tha của đạo phật. Điều đó thể hiện ở cách ứng xử của kiều với những ngưỡi xung quanh. Kiều đã hy sinh tình yêu, hy sinh hạnh phúc riêng tư của bản thân để cứu gia đình ra khỏi cơn gia biến. Đó là lòng hiếu thảo. Mười lăm năm lưu lạc, mười lăm năm chịu kiếp đọa đày, đáng ra nàng phải thương phận mình nhưng lúc nào kiều cũng băn khoan về những người thân, về mẹ cha, về Kim Trọng. Đó chính là sự vị tha.
Đọc Truyện Kiều chúng ta còn bắt gặp âm hưởng của đạo phật qua những thuật ngữ của đạo phật: đoạn trường, am mây, Nhồi tâm hương... Lúc ở "quan âm các" nhà Hoạn Thư, công việc của thúy kiều được Nguyễn Du tả như sau: “ngày phô thủ tự, đêm nhồi tầm hương". Ngày phô thủ tự, nghĩa là ngày bày ra chép kinh. Đêm nhồi tầm hương", ở đây là ngũ phần hương, năm thứ hương của pháp thân là: giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Nhồi tầm hương là ngồi thiền để tô bồi năm phần hương của pháp thân.
3.3. Sự giao thoa của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo
 Tác phẩm Truyện Kiều vừa tồn tại triết lí của Nho giáo, vùa tồn tại triết lý của Phật giáo (như chúng ta đã khảo sát ở trên) , sở dĩ như thế vì bản thân tác giả đã tiếp thu cả hai tư tưởng này. Nhưng trong Truyện Kiều, tư tưởng Nho giáo và Phật giáo không tồn tại một cách biệt lập mà giữa chúng có sự đan xen nhau.
Tư tưởng thiên mệnh là nội dung của Nho giáo nhưng ở Truyện Kiều nó không thuần túy Nho giáo nữa mà có thêm màu sắc Phật giáo. Nhà thơ giải thích tư tưởng định mệnh của Nho giáo bằng ngôn ngữ của Phật giáo. Mâu thuẫn của tài và mệnh là là biểu hiện tư tưởng định mệnh của Nho giáo thì nguồn gốc sẫu xa của nó lại chính là chữ nghiệp theo quan niệm của Phật giáo. Để thủ tiêu mâu thuẫn của tài và mệnh, con người phải tu tâm bởi vì theo đạo phật thì "thiện căn" - gốc rễ của cái thiện là ở trong lòng mình. đây là những lời của sư tam hợp khi nghĩ về cuộc đời Kiều:
"Sư rằng phúc họa đạo trời
cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
có trời mà cũng có ta
tu là cội phúc tình là dây oan"
Sư Tam Hợp cũng cho rằng mọi việc (phúc họa) do ở trời nhưng sau đó lại đề cao hành vi tu tâm. Như thế là Nguyễn Du đã đi từ nho sang phật hay nói đúng hơn là nhà thơ đã kết hợp Nho giáo với Phật giáo trong việc lí giải cuộc sống. Sở dĩ kết hợp được là vì chữ nghiệp theo quan niệm của Phật giáo cũng là một tưởng định mệnh. Cái khác là trong Nho giáo định mệnh do một lực lượng siêu nhiên bên ngoài con người chi phối (trời) còn với Phật giáo thì định mệnh nằm ngay trong bản thân con người và chi phối con người bằng luật nhân quả. Điều này đã được Hoàng Ngọc Hiến nói đến trong"triết lí Truyện Kiều": "tìm hiểu Truyện Kiều với nhu cầu hệ thống không khỏi phân vân vì ngôn ngữ triết học trong tác phẩm. Ngôn ngữ Nho giáo lẫn với ngôn ngữ Phật giáo... ". Đúng như thế, trong Truyện Kiều người phát ngôn cho tư tưởng Nho giáo là Đạm Tiên, song ngôn ngữ của Đạm Tiên vừa có nói đến trời, đến nhân, đến hiếu, vốn là những đức của Nho giáo đồng thời cũng nói đến "hội chủ", "đến sổ đoạn trường" đến "quả kiếp nhân duyên" của Phật giáo:
"Vâng trình hội chủ xem trường
Mà sao trong sổ đoạn trường có tên
Âu đành quả kiếp nhân duyên
Cũng người một hội một thuyền đâu xa"
Đọc Truyện Kiều, chúng ta bắt gặp rất nhiều câu thơ thể hiện sự giao thoa của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo. Chữ "trời" có khi được tác giả thay bằng chữ "thiên mệnh" của nho, cũng có lúc được thay cho chữ "nhân quả", "kiếp nghiệp" của đạo phật. Ngay trong cuộc đời mình, có lúc Kiều cho rằng ngọn nguồn khổ đau của mình đều do trời nhưng cũng có lúc nàng đổ lỗi cho nghiệp, kiếp:
"Nàng rằng nhân quả dở dang
Đã toan trốn nợ đoảntàng được sau
Số còn nặng nợ má đào
Người đà muốn chết trời nào có cho"
Nguyễn Du dùng chủ nghĩa thiên mệnh để cắt nghĩa cuộc sống mà chủ nghĩa thiên mệnh thì có tính cách siêu hình, trong khi đó ông cũng lờ mờ nhẩn ra rằng con người cũng có vai trò to lớn trong việc cải tạo vận mệnh của mình:"xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều", do đó nhiều trường hợp tác giả tỏ ra không nhất quán, bế tắc khi lí giải đau khổ của Thúy Kiều hay đau khổ của cuộc đời nói chung. Vì vậy, Nguyễn Du đã tìm đến đạo phật với mong muốn giải thoát được sự bế tắc ấy. Và ở đây ông đã gặp chữ "tâm" của đạo phật" thiện căn ở tại lòng ta/ chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Sự đan xen của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo trong Truyện Kiều một mặt phản ánh mâu thuẫn trong thế giới quan của Nguyễn Du, mặt khác phản ánh đặc trưng tư tưởng của thời đại bấy giờ, thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX cùng với sự suy tàn của chế độ phong kiến, Nho giáo không còn giữ địavị độc tôn như trước nữa, Phật giáo có điều kiện phát triển. đồng thời giữa Nho giáo và Phật giáo có xu hướng kết hợp với nhau và với tín ngưỡng dân gian để tìm một lời giải cho thời đại.



ĐỂ HIỂU ĐÚNG CÂU KIỀU VỀ CHỮ “TÂM” CỦA NGUYỄN DU
·                                   NGUYỄN HOÀN
·                                 Thứ sáu, 06 Tháng 5 2011 20:50
·                                 font size  
Có một câu Kiều không dùng đến điển tích, không cần phải chú giải mà ai cũng dễ dàng hiểu được, đó là câu:“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Nhưng không phải câu Kiều tưởng dễ dàng hiểu được này hoàn toàn được hiểu đúng thần thái thâm hậu của nó trong bất kỳ mọi nơi, mọi lúc, trong những dịp “lẩy Kiều”. Những người có chữ “tâm” đích thực trong đời này không phải là ít và hết thảy họ đều yêu mến, nâng niu câu Kiều nhân nghĩa lung linh này.
Nhưng những người nhân danh chữ “tâm” lại cũng không phải là ít và đôi khi chữ “tâm” nhân danh này bị đem đối lập với chữ tài. Và như thế chữ tài lại bị dè bỉu, bị đố kỵ. Và như thế hai chữ “tâm, tài” tương đố. Ngày xưa, khi viết “Truyện Kiều” để chứng minh cho thuyết “tài mệnh tương đố” (“Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”), Nguyễn Du đã không ngờ đến cái tình cảnh “tâm, tài tương đố” này.
Thực ra, đại thi hào Nguyễn Du chỉ đem chữ tài đối lập với chữ mệnh chứ chưa hề đem chữ tài đối lập với chữ tâm bao giờ cả. Không đối lập hai chữ “tâm-tài” nhưng lại bảo: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “rắc rối” chữ nghĩa là ở chỗ đó. Chẳng lẽ Nguyễn Du viết đến 3254 câu thần bút để ca ngợi một trang tuyệt thế về Tài-Tình-Sắc như Thuý Kiều mà lại đi dè bỉu “chữ tài” chăng? Hoàn toàn không, chữ tài trong cách hiểu của Nguyễn Du cũng như của cổ nhân là đã bao hàm cả chữ tâm, chữ đức ở trong đó nữa. Chả thế mà cha ông ta đã từng quý trọng, nâng niu hai chữ “hiền tài” và chính người tài là bậc hiền nhân ở đời cho nên phải “chiêu hiền đãi sĩ” (trong câu thành ngữ này, chữ hiền chính là chữ tài, hai chữ từ chỗ gắn kết nhau đã trở nên đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa).
Thuý Kiều, nhân vật chính của “Truyện Kiều” mà Nguyễn Du đã thác ngụ trọn vẹn tư tưởng nghệ thuật tuyệt diệu của mình, Thuý Kiều, về nhiều mặt lại chính là một phiên bản đắt giá về “cái tôi” của Nguyễn Du, nhân vật ấy có đủ hai chữ tâm, tài gắn kết nhau (thực ra, hai chữ tâm, tài trong hình tượng nghệ thuật Thuý Kiều là không thể chia cắt nhau được, có chia cắt là chia cắt tương đối theo lô gích hình thức thôi chứ không chia cắt được trong lô gích nghệ thuật và trong “phép biện chứng” của Nguyễn Du). Bảo chứng cho phẩm hạnh Thuý Kiều quả không có gì đáng giá hơn lời khen, lời đánh giá của các vị cao tăng. Sư Giác Duyên khen:
Người sao hiếu nghĩa đủ đường
Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
Sư Tam Hợp đạo cô khen cả hai chữ tài, chữ tình gắn kết nhau trong con người Thuý Kiều:
Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong
hoặc:
Lấy tình thâm trả nghĩa thâm
Bán mình đã động hiếu tâm đến trời
Không riêng gì các vị sư đạo cao đức dày mà ngay cả đến những kẻ thù của Thuý Kiều, những kẻ từng đày đoạ, hành hạ Thuý Kiều đến độ vùi hoa, dập liễu không xót tay, những kẻ ấy không những không dè bỉu mà còn vô cùng nể trọng một Thuý Kiều tài tình quá đỗi. Hoạn Thư nhiều lần khen ngợi cái tài của Thuý Kiều giá đáng nghìn vàng:
Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương
Ví chăng có số giàu sang
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
hay:
Tiếc thay lưu lạc giang hồ
Nghìn vàng thật cũng nên mua lấy tài!
Thúc ông (cha Thúc Sinh), người đã đem Thuý Kiều ra hành hạ, đánh đòn trước cửa công vì cái tội quyến rũ Thúc Sinh chơi bời hoa nguyệt, rút cuộc, chính Thúc ông cũng phải nể trọng cái tài nghiên bút “giá đáng Thịnh Đường”của Thuý Kiều:
Thương vì hạnh trọng vì tài
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba
Đáng chú ý, dưới con mắt dù khắt khe của chính mình, Thúc ông đã hiểu rằng trong con người Thuý Kiều, cái tài và cái đức hạnh gắn kết đi đôi với nhau.

Thế thì tại vì sao những người có được “chữ tài” (cũng tức là đã có đủ các chữ tâm, chữ đức nói chung) lại phải tu tâm, theo cách của Nguyễn Du đề xướng, trong khi chính những kẻ bất tài lại làm điều ác nữa chẳng hề phải tu tâm và cũng chẳng ai buộc được họ phải tu tâm cả? Khi viết nên câu Kiều nổi tiếng: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”, Nguyễn Du hoàn toàn không có ý cho rằng cái “tai” mà người tài phải gánh chịu do bởi họ sống mất nhân tâm hay thất đức mà rõ ràng, cái “tai” ấy chính là do kẻ xấu, kẻ ác, là do bầy Ưng Khuyển gây nên.
Để tránh đi hoặc vượt qua cái “tai”, các nhà hiền triết ngày xưa đã đưa ra những cách thức, những phép hoá giải mầu nhiệm khác nhau. Do nhận thấy rằng, cái “tài”, từ trong... bản thể của nó ẩn chứa nguyên nhân tai hoạ, vì người tài khó tránh khỏi bị đố kỵ, ghen ghét, Lão Tử đưa ra một cách xử thế sâu kín, thâm hậu để tránh tai hoạ:“Thông minh duệ trí thủ chi dĩ ngu, dũng lực chấn thế thủ chi dĩ khiếp”, nghĩa là người thông minh phải biết giữ mình bằng cách khiêm nhường, coi mình như người ngu, bậc anh hào có sức mạnh chấn động thế giới phải biết giữ mình bằng cách làm như người nhát sợ.
Cũng giống như Lão Tử, Nguyễn Du đã soi xét nguyên nhân gây nên tai hoạ cho người tài không chỉ nảy sinh từ phía xã hội, cụ thể là từ phía cái xấu, cái ác (“Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”) mà còn soi xét nguyên nhân này từ trong chính bản thể của cái tài, thành thử “Có tài mà cậy chi tài” (anh bị “tai” vì anh có tài, cũng như người phụ nữ đa đoan vì quá nhan sắc, “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”). Từ đó, Nguyễn Du, cũng giống như Lão Tử đã nghĩ ra cách “chế định” khôn khéo cho người tài bảo trọng thân mình. Nhưng Nguyễn Du không đưa ra cách xử thế “giấu mình” để tránh tai hoạ như Lão Tử nêu mà chọn cách khác, cách “tu tâm”.
Cái cách “tu tâm” mà Nguyễn Du nêu ra (phê bình văn học trước đây thường cho rằng điều này thể hiện sự bất lực của Nguyễn Du trước thực tại xã hội cũ) vừa chịu ảnh hưởng rõ nét của tư tưởng Phật giáo, vừa mang sắc thái riêng của Nguyễn Du. Dĩ nhiên, người “tu tâm” ở đây không phải do thiếu tâm, hay do tội lỗi phải sám hối mà là vì những lẽ đời nhiệm màu khác. “Tu tâm” ở đây đồng nghĩa với việc dùng sức mạnh của “chữ tâm” để hoá giải oan khiên, lấy ân báo oán, oán sẽ tiêu tan. Khi luận cho sư Giác Duyên nghe về cuộc đời chìm nổi của Kiều, sư Tam Hợp đạo cô đã nêu: “Có trời mà cũng tại ta, tu là cội phúc... ”. Người “tu tâm” sẽ làm chủ được nhân quả, làm chủ được hoạ phúc của đời mình. Trước hết là “trừ họa” từ quá khứ, công đức của Kiều ở kiếp này đã đủ để rửa sạch oan khiên từ kiếp trước, nói theo cách của nhà Phật:
Thửa công đức ấy ai bằng
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi
Khi nên trời cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau
Sau nữa là hưởng được quả phúc trong kiếp này: Kiều đã được sư Giác Duyên thuê người cứu sống sau khi nàng trầm mình trên sông Tiền Đường, giúp nàng dứt ra khỏi định mệnh Đạm Tiên, khiến cho Đạm Tiên đã phải “thông báo” là tên nàng Kiều từ nay được rút ra khỏi “sổ đoạn trường”:
Tâm thành đã thấu đến trời
Bán mình là hiếu cứu người là nhân
Một niềm vì nước vì dân
Âm công cất một đồng cân đã già
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau
Cái cách “tu tâm” trên đây còn là cách mà Nguyễn Du “hờn lẫy”, “hờn mát” với cuộc đời (“Có tài mà cậy chi tài”) và cũng là cách để chọi lại với cái ác, cái xấu. Lưu ý rằng với cách “tu tâm” mà Nguyễn Du xướng lên này, những người “đạt đạo” sẽ không chỉ tự tu dưỡng được đạo đức cho riêng mình mà còn góp phần cảnh tỉnh, nhắc nhở, hoá giải và “cứu chuộc tội lỗi” cả cho những ai đã thiếu tài lại thất đức, chẳng chịu tu tâm. Quả đúng như Tế Hanh viết:
“Một nhân vật như Thuý Kiều đã đi vào lịch sử
Chịu thay chúng ta bao áp bức trên đời”
Chính vì thiên chức “chịu thay” này của người hiền sĩ mà Nguyễn Du đặt chữ tâm bằng ba chữ tài. Hoá ra kẻ sĩ tu dưỡng chữ tâm không chỉ cho riêng mình mà cả cho đời. Và như thế hai chữ tâm, tài không hề đối lập mà đều cùng lấp lánh như nhau trên mỗi trang Kiều.




Nhiều người trong chúng ta đã đọc đi đọc lại những câu mở đầu và kết thúc  Truyện Kiều, nhưng không phải ai cũng  hiểu hết  những ý tình ẩn trong đó. Xin giới thiệu với các bạn bài TRĂM NĂM TRONG CÕI NGƯỜI TA trong quyển Về những thủ pháp nghệ thuật trong văn chương Truyện Kiềucủa tác giả Phạm Đan Quế – Nxb Giáo dục 2002,   Nxb Thanh niên tái bản năm 2004.
   Truyện Kiều có đặc điểm là nhiều khi cứ đọc đi đọc lại mãi rồi ngẫm nghĩ mới thấy được hết cái hay. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được trao đổi trước hết về kết cấu đoạn thơ và triết lý trong 20 câu Kiều quen thuộc: 6 câu đầu và 14 câu cuối tức 20/3.254 câu (0,61%) của tác phẩm bất hủ này.
   A. Trước hết là 6 câu mở đầu tác phẩm. Đây là đoạn giới thiệu nguồn gốc đề tài, cốt truyện và cảm hứng chủ đạo của tác giả. Trong kết cấu tác phẩm, đoạn thơ mở đầu Truyện Kiều, thuộc thành phần ngoài cốt truyện. Từ câu thứ 7 trở đi (Cảo thơm lần giở trước đèn), chúng ta được tiếp xúc với gia đình của nhân vật chính và những sự kiện mở đầu cho câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều bạc mệnh.
   Để nói được chủ đề của tác phẩm cùng triết lý trong truyện, Nguyễn Du mở đầu bằng 6 câu chia làm 3 đoạn:
   0001. Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau.

 
   Đây là thuyết Tài mệnh tương đố của các nhà Nho áp dụng cho mọi người (Nam cũng như nữ). Là con người thì có tài ắt mệnh kém và ngược lại. Quan niệm được nọ mất kia, hơn tài kém mệnh là tinh thần giáo điều dựa theo đề tài, cốt truyện trong các tác phẩm xưa thể hiện khuynh hướng cảm hứng chính thống trong nền văn học trung đại. Khuynh hướng ấy đã được các tác giả kinh điển của Nho gia phát ngôn như qua sách Luận ngữ trong câu “Thuật nhi bất tác” có nghĩa là: Noi theo, dựa theo (người xưa) mà không sáng tạo.
0003. Trải qua một cuộc bể dâu,
   Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
   Chủ ý của hai câu này là từ tư tưởng Phật giáo: Đời là bể khổ, ý chính là đoạn trường (đau đớn đến đứt ruột) cũng là để nêu nhan đề của tác phẩm: Đoạn Trường Tân Thanh (Tiếng mới đứt ruột).
   Chữ mà ở đây dùng để nhấn mạnh một lời than của tác giả đau đớn vì thấy hết được cái đau đớn của nàng Kiều, bởi tác phẩm của ông là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt ruột không chỉ cho một mà cho mọi số kiếp bị đọa đầy.
   0005. Lạ gì bỉ sắc tư phong,
   Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
   Bỉ: cái kia, sắc: ít, tư: cái ấy, phong: nhiều– Bỉ sắc tư phong là điều kia kém thì điều này hơn, đã đẹp (má hồng) thì phải chịu khổ, trời xanh đã định vậy: thuyết Hồng nhan bạc mệnh. Đây là diễn ý của câu 1–2 cho mọi người, câu 5–6 dành riêng cho phận gái – Một nửa của nhân loại.
   Còn câu 2 và 6 lại nói về mệnh trời (chữ MỆNH, TRỜI xanh), đây là thuyết Thiên mệnh của Nho giáo.
   Như vậy chỉ có 6 câu mở đầu mà tác giả đã trình bày được tới 4 triết thuyết: thuyết Tài mệnh tương đố của các nhà Nho, tư tưởng Phật giáo: Đời là bể khổ, thuyết Hồng nhan bạc mệnh, thuyết Thiên mệnh của Nho giáo. Chả thế mà Chỉ với hai câu mở đầu, nhà Nho Vũ Trinh ở thế kỷ 19 đã phê:  “Mạo đầu sổ ngữ cảm khái hệ chi. Khai quyển sổ cú tận chi “ (Ở mấy lời mở đầu quyển truyện niềm cảm khái đã vang theo. Mấy câu đầu đã nói trọn cốt truyện).
   Trong ngôn ngữ truyền thống, người ta gọi đây là đoạn “phát đoan”. Các nhà nghiên cứu văn học hiện nay xếp đoạn thơ này thuộc thành phần ngoài cốt truyện mang nội dung biểu hiện ý kiến có tính chất triết lý, có giá trị tổng kết của tác giả. Thuật ngữ khoa học gọi đoạn thơ này là ngôn ngữ thuyết lý, là lời bình luận trữ tình hoặc cụ thể hơn, là lời bình luận trữ tình ngoại đề. Từ câu 7 là đoạn chuyển: Cảo thơm lần giở......
   Câu 9– Rằng: Năm Gia Tĩnh.. là thời gian, thuộc thế kỷ 15, câu 10– Bốn phương... hai kinh...là không gian của câu chuyện sắp xảy ra để đi vào tác phẩm, bắt đầu bằng câu 11: Có nhà viên ngoại họ Vương..
   Chỉ với 6 câu thơ mở đầu mà ta thấy ở đây một giá trị nghệ thuật đặc sắc ở tính chất khái quát hàm súc trong nội dung, ý nghĩa bộc lộ trực tiếp thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả và cả một phong cách ngôn từ sinh động đưa triết học đến với thế giới văn chương và tạo cho gương mặt thi ca chiều sâu của tư duy triết học (Đặng Thanh Lê).
   Cũng trong những câu mở đầu này, chúng ta cần chú ý đến mấy từ thuần Việt mà tác giả đã chuẩn bị công phu:
   Khéo là ghét nhau: khéo ở đây là tiếng lấy làm ngạc nhiên, mỉa mai, châm chọc, tưởng khen mà lại là chê bai, dùng để chê trách như khéo thay, rõ khéo biểu thị sự lạ lùng, nực cười, khó hiểu cũng như khéo trong những cụm từ khéo chửa, khéo vẽ.Trong Cung oán ngâm khúc cũng có câu: 88.Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.
   –Lạ gì: chẳng có gì là lạ, biểu thị một thái độ bực tức, chán ngán, dè bỉu, khinh thường, quen quá đi rồi còn lạ gì nữa trong các câu:
   1161. Đà đao lập sẵn chước dùng,
   Lạ gì một cốt một đồng xưa nay.
   1287. Lạ gì thanh khí lẽ hằng,
   Một dây một buộc ai giằng cho ra?

 
   – Quen thói với giọng chì chiết, bêu riếu, khinh thị, xấc xược, căm ghét trong câu:
1303. Thúc sinh quen thói bốc rời,
   Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
   Trong 6 câu, tác giả ghi nhận một cách thản nhiên cái định luật oái oăm của ông Trời, của tạo hóa với những sắc thái biểu cảm sinh động biết bao. Về 6 câu này, trong bài Giọng điệu trong văn chương, Hoàng Ngọc Hiến viết:
   Muốn hiểu Truyện Kiều phải bắt được cái giọng của tác giả trong 6 câu triết luận mở đầu. Điều quan trọng trong đoạn mở đầu này không chỉ ở luật oái oăm, ác hại của cõi người ta: Tài mệnh tương đố, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh. Điều quan trọng hơn cả là cái giọng mỉa mai hờn mát đay đả của tác giả khi nói đến những luật này.
   0001. Trăm năm trong cõi người ta,
   Chữ Tài, chữ Mệnh khéo là ghét nhau.
   Tác giả không thản nhiên ghi nhận cái luật oái oăm này. Thái độ tác giả bao hàm nhiều sắc thái. Từ khéo là có bao nhiêu nghĩa thì cái giọng của tác giả biểu hiện ở đây có bấy nhiêu sắc thái: mỉa mai, hờn mát, rỡn cợt, châm chọc... Tài mệnh tương đố không phải là tư tưởng của Truyện Kiều. Triết lý của Truyện Kiều là ở cái giọng của tác giả khi nói về tư tưởng này, nói ở chữ khéo là vào câu tài mệnh tương đố.
   Câu 5–6: Cũng như cách phân tích ở trên, bỉ sắc tư phong, hồng nhan bạc mệnh không phải là tư tưởng đích thực của Truyện Kiều. Ở đây cái giọng của tác giả rất rõ. Trước luật cõi đời và luật của trời, Nguyễn Du là một người đáo để với cái giọng đay đả, đay nghiến của ông: Lạ gì... Ở đây bộc lộ một thái độ dè bỉu, bực tức, chán ngán... Cái giọng văn của Nguyễn Du khi nói đến luật hồng nhan bạc mệnh bao hàm một thái độ đối với trời xanh, một cái giọng “xẵng” và thái độ “xấc”. Với cái giọng này và thái độ ấy, nhà thơ có chửi luôn cả Trời thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên...
   B. Về 14 câu cuối cùng của tác phẩm. Nếu thuyết Thiên mệnh của Nho giáo được nêu ra ở câu 1–2 (chữ TÀI, chữ MỆNH) và 5–6 (trời xanh) thì trong 4 câu đầu của đoạn kết của tác phẩm lại được nhắc lại và mở rộng:
   3241. Ngẫm hay muôn sự tại TRỜI
   TRỜI kia đã bắt làm người có thân.
   3243. Bắt phong trần phải phong trần,
   Cho thanh cao, mới được phần thanh cao
   Ngẫm hay: chỉ hai chữ này thôi cũng cho ta thấy tác giả đã nung nấu suy nghĩ rất nhiều để đi đến kết luận này dù còn rất bi quan: Ở đời người ta đều có số, do Trời định sẵn (Mệnh Trời). Tác giả đay nghiến ông Trời kia bằng cách lặp lại chữ TRỜI ngay ở đầu câu 3242 tiếp ngay chữ TRỜI ở cuối câu 3241. Ông còn dùng những chữ bắt–phải, cho–mới được, rồi chì chiết bằng cách lặp lại hai lần những chữ phong trần, thanh cao.
   Tiếp theo là 4 câu về thuyết Tài mệnh tương đố tương ứng với câu 2 (Chữ TÀI chữ MỆNH khéo là ghét nhau) được phô diễn cụ thể:
   3245. Có đâu thiên vị người nào,
   Chữ TÀI chữ MỆNH dồi dào cả hai,
   3247. Có tài mà cậy chi tài,
   Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần.

 
   Tác giả lặp lại bốn lần: chữ TÀI, chữ MỆNH, chữ TÀI, chữ TAI dùng hai lần chữ TÀI và một lối chơi chữ rất thần tình Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần làm cho người đọc càng thấy xót xa, căm giận cho cái luật lệ trớ trêu này của tạo hoá.
   Nếu câu 3–4 ở đầu truyện chỉ nhằm nói triết thuyết đời là bể khổ của đạo Phật (Trải qua một cuộc...Những điều trông thấy...) thì ở đây với những chữ của nhà Phật nghiệp, thân, thiện căn lại là 4 câu khuyên phải làm gì để thoát khỏi bể trầm luân, nỗi đau triền miên của nhân loại, là tư tưởng TU TÂM của Phật giáo:
3249. Đã mang lấy nghiệp vào thân,
   Cùng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
   3251. Thiện căn bởi tại lòng ta,
   Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI.
   Thế là đoạn mở đầu Truyện Kiều và đoạn kết thúc tác phẩm mang tầm độ, ý nghĩa khái quát, tổng kết về toàn bộ số phận và tính cách Thúy Kiều, về những vấn đề chủ yếu đã đặt ra trong tác phẩm. Cái lối trên hô dưới ứng như vậy mà chúng tôi đã trình bày trong chương III ở trên xưa gọi là phục bút. Nghiệp, thân, thiện căn, chữ TÂM là những từ của nhà Phật. Tác giả mở đầu Truyện Kiều bằng 3 đoạn, mỗi đoạn 2 câu nói về thuyết Thiên mệnh (Tài mệnh tương đố, Hồng nhan bạc mệnh) của Nho giáo và Đời là bể khổ của Phật giáo thì ở đoạn kết ta cũng thấy có 3 đoạn mỗi đoạn 4 câu nêu lại những vấn đề ấy và cũng là để khép lại chủ đề của truyện. Và chúng ta lại càng thấy thi hào Nguyễn Du viết chặt chẽ đến từng câu từng chữ: Lời lời châu ngọc, chữ chữ tổn tinh thần. Khi đọc đến 2 câu cuối cùng của cuốn sách trước khi gấp lại, ta thấy sao mà khiêm tốn vậy và quả làrất Nguyễn Du:
   2353. Lời quê chắp nhặt dông dài
   Mua vui cũng được một vài trống canh.



Nhân mùa lễ Phật Đản, tôi xin có vài suy nghĩ về Mệnh Trời và Nghiệp Báo
sau khi được nghe một bài pháp thoại.
Các cụ ta có câu: "Ngũ thập tri thiên mệnh" (Năm mươi tuổi biết được mệnh
trời). Ở cái tuổi 50, chúng ta chưa thể được gọi là già nhưng cũng không còn trẻ
nữa. Với năm mươi năm ấy, chúng ta đã đi được một hành trình khá dài, ít ra cũng
nửa đời người. Và trong thời gian đó, chúng ta đã gặt hái được một số kinh nghiệm
sống đủ để hiểu được mệnh trời ra sao và đã ảnh hưởng đến đời sống chúng ta như
thế nào. Tuổi càng cao, sự chứng nghiệm về mệnh trời càng rõ ràng hơn vì có
nhiều điều xẩy ra trong đời sống, ta không thể dùng lý luận hoặc kiến thức khoa
học mà giải thích hay chứng minh được.
Mệnh trời nôm na còn gọi là số trời hay số mệnh. Vậy mệnh trời, số trời hay số
mệnh là gì?
Với cái nhìn của Nho giáo, mệnh trời được coi như một uy quyền đến tự trời và
chúng được áp đặt vào đời sống của mỗi con người từ lúc sinh ra đến lúc chết đi.
Con người được tạo sinh bởi trời, do đó con người là con cái và là công cụ của trời
nên con người phải tuân thủ mọi ý muốn của "ông trời" sắp đặt không thể chống
trả hay sửa đổi lại được, cũng như trong thời phong kiến vua bắt thần chết thì phải
chết, không chết là bất trung vậy.
Theo Nho giáo, con người không có quyền tham dự vào việc quyết định số
mệnh của mình mà phải hoàn toàn tuân thủ nơi số mệnh đã được đinh sẵn nên mỗi
khi gặp nghịch cảnh người ta thường nẩy sinh tinh thần thụ động, yếm thế, ỷ lại,
chịu đựng, phó mặc chứ không tìm cách cải đổi số mệnh của mình hầu mang lại
đời sống tốt đẹp hơn. Mệnh trời khi đã định sẵn cho người nào rồi thì dù cho người
ấy có tài giỏi khôn ngoan đến đâu cũng không thoát ra được.
Những ý tưởng thụ động về số mệnh nêu trên đã được thể hiện không ít trong
dân gian qua những câu ca dao tục ngữ :
Số lao đao phải sao chịu vậy,
Tới số ăn mày bị gậy phải mang.
Số giầu tay trắng cũng giầu,
Số nghèo chín đụn, mười trâu cũng nghèo.
Cây khô xuống nước cũng khô ,
Phận nghèo đi tới chỗ mô cho giầu. Số giầu đem đến dửng dưng,
Lọ là con mắt tráo trưng mới giầu.
Khó giầu muôn sự tại trời,
Nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi.
Tử sinh hữu mệnh, phú quý tại thiên
Thuốc chữa được bệnh,chẳng chữa được mệnh.
Mưu sự tai nhân, thành sự tại thiên
Với cái nhìn của Phật giáo: thiên mệnh hay số mệnh được hiểu là nghiệp báo.
Nghiệp từ đâu đến? Nghiệp không đến từ trời như quan niệm của Nho giáo.
Nghiệp đến từ hành động của con người qua luật Nhân Quả.
Ta gieo Nhân tốt thì gặt hái Quả tốt, ta gieo Nhân xấu thì ta gặt hái Quả xấu.
Nghiệp báo có mặt trên thế gian này như định luật đền trả những điều mình làm
trong quá khứ hay ngay trong hiện tại với "quả báo nhãn tiền". Nghiệp gặp hoàn
cảnh, tức nhân duyên, sẽ khởi động và tác động trực tiếp vào đời sống con người.
Nghiệp là động cơ chính đưa con người vào vòng luân hồi sinh tử. Muốn thoát
được vòng sinh tử, con đường duy nhất là ta phải tự mình giải được nghiệp của
mình.
 Như thế, dựa vào thuyết nghiệp báo của nhà Phật, con người được chủ động
định đoạt số mệnh của mình, không ai có quyền ban bố sự an vui cũng như không
có ai có thể áp đặt sự đau khổ cho mình mà chỉ có chính mình mới có quyền quyết
định sự chọn lựa cuộc sống cho chính mình trong tương lai mà thôi. Chính vì thế
nghiệp báo trong đạo Phật có tính chất chủ động, tích cực, đầy sáng tạo và tôn
trọng con người trong tinh thần dân chủ chứ không quan niệm số mệnh đầy tính
chất áp đặt, phong kiến như của Nho giáo. Khi gặp nghịch cảnh, ta cố gắng chuyển
hóa hay giải nghiệp để cải thiện hoàn cảnh hay tiến tới đời sống tốt đẹp hơn theo
đúng tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi của Phật.
Tin ở sự công bình của luật Nhân Quả và cũng như tin ở khả năng chuyển đổi
nghiệp lực của mình, ý tưởng về Nghiệp cũng được thể hiện qua những câu ca dao
tục ngữ truyền tụng trong dân gian dưới đây:
Những người mặt mũi nhọ nhem,
Bởi chưng kiếp trước đĩa đèn không lau.
Những người mặt trắng phau phau,
Bởi chưng kiếp trước hay lau đĩa đèn
Thiên đạo chí công
Đức năng thắng số.
Nhân định thắng thiên. Nghiệp được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau tùy theo nặng nhẹ.
Nghiệp có thể tác động lên một người, một nhóm người hay cả một nước mà ta gọi
là mệnh nước hay vận nước vậy. Nghiệp được thể hiện dưới nhiều hình thức mà ta
dễ nhận biết nhất đó là nghiệp thể hiện trong tính nết con người. Có người được
sinh ra với tính nết hiền hòa nhân hậu, có người sinh ra với tính nết dữ dằn độc ác
dù là có khi không do chịu ảnh hưởng của xã hội, gia đình hay tập quán chung
quanh, mà do bẩm sinh mà có. Người có tính dễ dãi thì mọi chuyện dù dữ cũng
thành lành để được an vui, nó được coi như những sự ân thưởng của luật Nhân
Quả. Người có tính hay khúc mắc thì dù chuyện lành cũng thành dữ để đau khổ và
nó được coi như những sự trừng phạt của luật Nhân Quả, mình tự đập mình tan nát
trong tâm.
Nếu ta thấy được cái nghiệp của ta phần lớn nằm trong tính nết thì khi ta muốn
chuyển đổi một phần nghiệp dữ thành nghiệp lành thì ít ra ta cần phải thay đổi tính
nết của ta. Tu là sửa đổi, mà sửa đổi tính nết là một phần khá quan trọng trong việc
mở đường cho những bước thăng tiến cao hơn trên con đường giải nghiệp, diệt
khổ. Thí dụ tính hay hờn giận, ghét người, tạo nên khổ, vậy hãy yêu người cho bớt
hay hết khổ đi, "Yêu người là yêu mình" là nghĩa như thế. Ta cứ ngồi rà soát lại
tính nết của ta thì ta mới thấy con người trầm luân bể khổ là phần lớn do tác động
của nghiệp ẩn tàng qua tính nết của ta vậy.
Kinh Nhân Quả nói "Muốn biết Nhân đời trước, chỉ xem Quả hiện tại mà ta
đang thọ; muốn biết Quả đời sau, chỉ xem Nhân gây tạo trong đời này". Cứ theo
như thế, chúng ta chẳng cần phải có "thiên lý nhãn" ta cũng có thể nhìn thấu 3 kiếp
của ta, kiếp hiện tại, kiếp đã qua, và kiếp sắp tới. Đối với các bậc đại sư hay thiền
sư họ nhìn cuộc đời đau khổ chỉ vì vô minh. Khi ta hết vô minh thì Địa ngục và
Thiên đường chỉ là một, nên nhà Phật có những câu như :
- Sắc tức là không, không tức là sắc
- Phiền não tức bồ đề
- Sanh tử tức Niết bàn.
Tất cả những điều ấy tưởng như đối nghịch, nhưng thật ra chỉ là hai mặt của
một bản thể trong triết lý "bất nhị" của nhà Phật mà thôi. Xin đưa ra đây một vài
đoạn văn thơ tiêu biểu trong văn học Việt nam đã chịu ảnh hưởng triết lý của
nghiệp và số trời như:
- Trong hai câu mở đầu của tác phẩm "Bích Câu Kỳ Ngộ", tác giả Vô Danh viết
:
Mấy trăm năm một chữ tình
Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.
(Hoá nhi: Tạo hóa = trời, nhi = trẻ con. Ý nói trời oái oăm như trẻ con.) - Trong "Cung Oán Ngâm Khúc", Ôn Như Hầu tả cảnh cung phi oán hận vì
đơn chiếc trong cung:
Tay tạo hóa cớ sao mà độc,
Buộc người vào kim ốc mà chơi.
(kim ốc = nhà vàng, ý ám chỉ cung vua).
- Đoạn kết của Đoạn Trường Tân Thanh (Kiều), Nguyễn Du viết :
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao...
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Trong đoạn này, Nguyễn Du đã nhắc lại hai triết lý Số trời của Nho giáo và
Nghiệp báo của Phật giáo. Cụ đã dùng hai triết lý này làm nền tảng để chứng minh
cho thuyết "tài mệnh tương đố" của truyện Kiều mà ta nhận ngay ra được với hai
câu mở đầu :
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là nghét nhau.
Dựa vào những câu thơ tiêu biểu của các tác giả nêu trên, ta thấy được tinh
thần hòa đồng tam giáo gồm Phật giáo, Khổng giáo, và Lão giáo, đã ảnh hưởng
đến triết lý sống của dân ta một cách sâu sắc như thế nào.
Để đón mừng ngày Đản sinh tôi xin chép ra đây lời nói của Thiền sư Thần Hội,
đệ tử của Lục Tổ Huệ Năng, để chúng ta cùng suy ngẫm.
Tâm là Phật
Vô tâm là Đạo.



TUYÊN NGÔN SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DU              

Những nhà văn, nhà thơ lớn, ý thức đầy đủ về sự nghiệp lập ngôn, trước tác, thường đều có tuyên ngôn sáng tác. Tuyên ngôn đó, hoặc viết thành văn bản riêng, hoặc nôm ngay trong tác phẩm sáng tạo, ẩn giấu hay bộc lộ, gián tiếp hay trực tiếp, nhằm nói lên ý đồ hay quan niệm, cương lĩnh hay phương pháp sáng tác của nghệ sĩ.

Thi hào Nguyễn Du của chúng ta, ý thức sâu sắc và nhức nhối hơn ai hết về sự nghiệp " văn chương " của mình, không thể không có tuyên ngôn sáng tác.    

Mở đầu Truyện Kiều, ông viết:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Và ông kết thúc tác phẩm:
Lời quê chấp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Theo ý tôi, chẳng thể xem đó là những lời mở đầu và kết thúc  hình thức, mà đó chính là những lời tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du, trong đó được nêu lên ý đồ sáng tác và cả một số đặc trưng chủ  yếu của phương pháp sáng tác của nhà thơ, phương pháp hiện thực  chủ nghĩa. Điều đặc biệt đáng chú ý là hầu hết những ý  trên đây trong Truyện Kiều đều được lặp lại trong Thơ chữ Hán là trong Bắc hành tạp lục. Chẳng hạn, câu thơ cô đọng:
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

Đã được ghi lại trong bài thơ Mộ Ti Can :
Mục trung sở xúc năng vô lệ

(Những điều trông thấy không thể không làm rơi nước mắt).

TRĂM NĂM TRONG CÕI NGƯỜI TA
Dường như đây là lần đầu tiên một nhà thơ Việt Nam khẳng định rõ ràng dứt khoát rằng ông viết về "những điều trông thấy" « ở đây và bây giờ». Ở đây, tức là «trong cõi người ta», trong xã hội trần gian này, bây giờ hay lúc này tức là trong khoảng «trăm năm » của một đời người. Trong Thơ chữ Hán, Nguyễn Du cũng nhiều lần nhắc những chữ mục trung, sở kiến, cũng như nhân sinh bách niên, thậm chí có bài thơ ông lấy hẳn  nhan đề là Sở kiến hành (Bài hành về những điều trông thấy). Còn như trong Truyện Kiều thì ông viết nhiều lần những chữ đây và bây giờ.
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây
Hay:
Mười lăm năm mới bây giờ là đây

Thế nhưng, điều oái oăm là ở chỗ Nguyễn Du trong phần lớn sáng tác của mình lại kể chuyện người xưa và ở nước ngoài. Tại sạo như vậy? Đây chính là vấn đề đặt ra trước tiên cho chúng ta giải quyết. Nhưng không ai khác hơn là chính Nguyễn Du  đã giải đáp rõ ràng. Trong Thơ chữ Hán, ông nhắc đi nhắc lại mấy làn cái kế " tàng sinh " của ông:
Ở đất khách giả vụng về để phòng thói tục
Gặp đời loạn vì muốn giữ toàn sinh mệnh nên luôn luôn sợ người ta .
Cái mà Nguyễn Du rất sợ chính là cái án « yêu thư yêu ngôn », búa rìu kiểm duyệt phong kiến. Có điều là ông luôn luôn mặc nhiên liên hệ chuyện xưa với chuyện nay, chuyện nước ngoài với chuyện trong nước. Chẳng hạn, khi ông viết:
Thường nghe nói đất Trung Hoa ai cũng no âm

(Không ngờ) Trung Hoa cũng có người như thế ấy.
Thì phải đâu ông chỉ nói về Trung Quốc, mà chính là ông nói đến Việt Nam.

Sự sáng tạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều không chỉ đơn giản là một việc " gia công" vụn vặt và máy móc như có người nói .

Thật ra, Nguyễn Du đã chủ động mượn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân để phóng tác Truyện Kiều là vì xã  hội phong kiến nhà Minh về cơ bản giống xã hội phong kiến Việt Nam thời Nguyễn Du. Song, thật sự Nguyễn Du đã làm một việc tái tạo tinh vi,  phức tạp để biến một tác phẩm văn học tầm thường, tự nhiên chủ nghĩa đến thô tục, trở thành một tác phẩm văn học  hiện thực chủ nghĩa kiệt xuất, tuyệt vời. Chỉ cần đối chiếu những nhân vật cùng tên của hai tác phẩm cũng thấy rõ điều đó. Chắc hẳn những điều trông  thấy, nghe thấy của hai nhà văn có  chỗ giống nhau, nhưng rõ ràng là cách biểu thị của hai tác giả thật khác xa nhau, khác nhau về nghệ thuật mà cũng do cả cách nhìn. Thay vào lời kẻ lể nhạt nhẽo, khô khan của Thanh Tâm tài nhân là nét vẽ sắc sảo, sống động của Nguyễn Du. Ngọn bút của nhà thơ là có thần, nhân vật của ông có linh hồn, không chỉ ông trông thấy, nghe thấy, mà ông còn khiến cho cả người đọc tưởng đâu như cũng tự tai tự mắt mình nghe thấy, trông thấy. Cách nhìn của Nguyễn Du vượt xa cách nhìn của Thanh Tâm tài nhân ở chỗ nhà thơ nhìn thấy cả cái riêng và cái chung  và từ cái bên ngoài Ông nhìn thấu cái bên trong. Nguyễn Du không bận tâm về những chi tiết vụn vặt mà ông biết tóm lấy một số chi tiết vừa cá biệt vừa điển hình, vừa phản ánh cái ngoại hình mà vừa soi sáng cái nội tâm. Một chi tiết về Mã Giám Sinh như ghế trên ngòi tót sỗ sàng, hay về Tú Bà như vắt nóc lên giường ngồi ngaỵ, thuộc vào loại chi tiết đó, nó là một chi tiết  khêu gợi khiến người đọc từ một nhân tố riêng lẻ, cục bộ, có thể trực giác được cái chung, cái toàn bộ, cụ thể như từ một cử chỉ, một hành động, một lời nói, thậm chí một cách ăn mặc, trang phục của nhân vật mà hình dung được cả tâm lý, tính cách của một con người. Mà sở dĩ Nguyễn Du có cái nhìn tinh vi, bao trùm và thấu suốt như vậy trước hết bởi ông rất nhạy cảm và có mối quan tâm sâu sắc, tha thiết với cuộc đời và con người.

Tựu trung, có thể nói rằng Nguyễn Du từ những điều trông thây đã vươn tới chiều rộng và chiều sâu của sự vật, của con người, chủ nghĩa hiện thực của ông đạt tới trình độ vừa khái quát xã hội cao, vừa đi vào chiều sâu của tâm hồn, tâm lý con người.

Từ đầu thế kỉ XV, Nguyễn Trãi bước đầu đã vạch ra một phần bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến. Sang thế kỉ XVI, khi chế độ phong kiến bước vào con đường suy thoái, Nguyễn Bỉnh Khiêm mới thật sự là người đầu tiên vạch ra tương đối có hệ thống những tệ lậu của xã hội phong kiến.

Phải tới cuối thế kỷ XVIII, sau ngót ba trăm năm rối ren, đảo lộn xã hội, liên miên, dồn dập chiến tranh phong kiến, chiến tranh nông dân, chiến tranh dân tộc, chế độ phong kiến đi tới chỗ mục ruỗng; suy, sụp. Nguyễn Du mới thật sự là người vẽ lên được bức tranh khái quát xã hội phong kiến rộng lớn, vạch trần một cách cụ thể, ác liệt chưa từng thấy bản chất của chế độ phong kiến với những tệ lậu của nó, không phải chỉ là từng nơi, từng lúc mà là phổ biến, kéo dài.

Trước Lỗ Tấn hàng trăm năm, Nguyễn Du đã khẳng định chế độ phong kiến là chế độ "ăn thịt người". Trong bài thơ Phản chiêu hồn, ông viết:

Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo,
                                         Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo,
                         Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Qùy
                      Họ không để lộ vuốt nanh, sừng và nọc độc,
                        Nhưng cắn xé thịt người ngọt xớt như đường.

Và sự khái quát hóa xã hội của Nguyễn Du là bao trùm cả không gian và thời gian. Truyện Kiều đã từng cho ta cái cảm giác chế độ phong kiến với mọi thiết chế xã hội của nó (kể cả lầu xanh),  dăng ra như thiên la địa võng mà nạn nhân của nó là Thúy Kiều không sao ra thoát khỏi:

Ma đua lối, quỷ đem đường
Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

Đến như Thơ chữ Hán của Nguyễn Du  đặc biệt là Bắc hành tạp lục, lại đưa khái quát hóa lên mức độ cao hơn. Cũng trong bài Phản chiêu hồn, ông viết:
       Đời sau ai ai cũng đều là Thượng quan
   Mặt đất đâu đâu cũng là sông Mịch la
Cá rồng không ăn hùm sói cũng ăn
Điều mỉa mai là chính Nguyễn Du cũng đã làm một bài Văn tế chiêu hồn cho cả " thập loại chúng sinh ", và ở đây ông cũng khái quát hóa cao độ :

Đêm trường dạ tối tăm trời đất

Ôi ! Cái đêm dài phong kiến Việt Nam, cái đêm dài phong  kiến phương Đông mà lục địa Trung Hoa mênh mông là một hình mẫu, đó là cơ sở hiện thực cái tầm nhìn nhân loại, "trông thấy cả sáu cõi " của Nguyễn Du.

Khi mà Nguyễn Du bao  quát chiều rộng của xã hội thì ông  cũng đi sâu vào tâm hồn, tâm lý con người. Kế thừa được những thành tựu bước đầu của Truyền kỳ mạn lục, Thiên Nam ngữ lục, của ngâm khúc và truyện thơ nôm, Truyện Kiều, vượt lên trên truyện thơ nôm đương thời, cùng với Hoàng Lê nhất thống chí, đã xây dựng được hàng loạt những nhân vật sinh động, những tính cách hoàn chỉnh và sắc nét ở đó cá tính hóa kết hợp với điển hình hóa đến mức những danh từ riêng như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, hay Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Thúc Sinh, Hoạn Thư... trở thành những danh từ chung để chỉ những hạng người nhất định trong xã hội, trong cuộc  đời cho đến cả ngày nay.

Có điều là, một mặt, tuy Nguyễn Du đạt tới trình độ khái quát hóa xã hội cao, ông lại chưa nhận thức  được vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, cho nên ông chưa đạt tới được điển hình xã hội trọn vẹn mà còn dừng lại ở trình độ điển hình tầm lý. Mặt khác, do tinh thần phân tích khoa học chưa phát triển, và cũng một phần do phong cách hàm súc đặc biệt Việt Nam, Nguyễn Du không mô tả ngoại hình dài dòng, tỉ mỉ mà tập trung vào một sổ chi tiết khêu gợi như đã nói ở trên, và cùng với sự trình bày hành động và nhất là ngôn ngữ, đối thoại, ông phanh phui tâm lý của nhân vật đến mức độ tinh vi. Những diễn biến tâm lý của bộ ba nhân vật Thúy Kiều — Thúc Sinh — Hoạn Thư trong quan hệ với nhau có thể xem như mẫu mực về phân tích tâm lý mà văn học cổ điền Việt Nam đã đạt được. Đặc biệt, với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã đạt tới tính cách hoàn chỉnh, có phát triền tâm lý, có vận động qua thời gian : từ một Thúy Kiều " e lệ nép vào dưới hoa" đến một Thúy Kiều "sánh với Từ công cùng ngồi" trên ghế pháp quan để báo ân báo oán, là cả một quá trình phát triển lâu dài của tính cách theo quy luật nội tại của nó.

Tuy nhiên, cũng không thể bảo rằng Nguyễn Du đã không đạt tới điển hình xã hội ở mức độ nào đó, dù chỉ là tự phát. Chẳng hạn, cái ghen kiểu Hoạn Thư thì chỉ có thể là cái ghen của một tiểu thư con vị " thiên quang trủng tể", và mối quan hệ Hoạn Thư —Thúc Sinh— Thúy Kiều ít nhiều cũng phản ánh được mối quan hệ quý tộc — phú thương — bình dân trong xã hội đương thời.

Có thể khẳng định rằng tính hiện thực ở những nhân vật phản diện cao hơn ở những nhân vật chính diện. Ngay trong việc khắc họa nhân vật, hoặc là về mặt ngoại hình, hoặc là về mặt ngôn ngữ, những yếu tố biểu hiện ước lệ, tượng trưng được sử dụng với nhân vật chính diện nhiều hơn là với nhân vật phản diện.

Điều đó có mặt hạn chế trong chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du,  nhưng cũng có mặt là ước lệ, biểu tượng ở đây lại thích hợp với tính chất trang trọng, nghiêm chỉnh của nhân vật chính diện, nhất là vì những nhân vật này mang khá nhiều yếu tố trữ tình, lãng mạn, thể hiện một phần lý tưởng ước mơ gắn bó với tâm hồn, tâm sự của chính nhà thơ. Điều này lộ rất rõ trong Thơ chữ Hán.

Điều rõ ràng là Nguyễn Du đã lấy văn thơ làm nơi ký thác tâm sự của mình. Về bản thân, ông từng viết:

     Bốn bề gió bụi nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ
Ta có một chút tâm sự không biết tỏ, cùng ai .

Và trong các nhân vật lịch sử của Trung Hoa, có lẽ Khuất Nguyên là người mà Nguyễn Du tâm đắc nhất.

Cũng như Khuất Nguyên vì không được Sở hoài vương trọng dụng và bị lưu đày mà phải mượn Ly tao để ký thác tấm cô trung, Nguyễn Du vì không gặp thời để thi thố tài năng nên phải mượn văn thơ đề gởi gấm tâm sự. Chính vì vậy mà có thể nói chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du vừa mang tính chất tâm lý vừa mang tính chất trữ tình.

CHỮ TÀI CHỮ MỆNH KHÉO LÀ GHÉT NHAU
Với quan điểm «tài mênh tương đổ» của Nguyễn Du, chúng ta đi vào vấn đề triết lý Truyện Kiều mà cũng  là vấn đề thế giới quan của Nguyễn Du. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu những vấn đề này.

Ở đây không đi sâu vào lý luận và phân tích tác phẩm mà chỉ đưa ra một số nhận xét cơ bản và tổng quát nhằm làm sáng tỏ vấn đề chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. Trước tiên, để nghiên cứu và phân tích Truyện Kiều và đặc biệt là thế giới quan của Nguyễn Du một cách toàn diện, ở đây hơn ở đâu hết cần phải nhất thiết đối chiếu Truyện Kiều với Thơ chữ Hán, lấy hai tác phẩm bổ sung và soi sáng cho nhau.

Điều đáng chú ý là Thơ chữ Hán, viết rải rác trên một thời gian dài hàng ba mươi năm trời gần như những tập nhật ký, là nơi Nguyễn Du, thông qua người thật việc thật (kể cả người và việc trong lịch sử), bộc lộ trực tiếp tư tưởng tâm sự của mình, nếu nó mang nhiều tính chất chính xác hơn về mặt tư liệu thì chính cũng vì lý do đó nhà thơ không khỏi có chỗ dè dặt, thận trọng vì cái họa " bút sa gà chết". Trái lại, Truyện Kiều là một truyện hoàn toàn hư cấu mà lại mượn của nước ngoài, thông qua hình tượng nghệ thuật có tính phức âm mà phản ánh cuộc đời, cho nên nó có chỗ kém chính xác hơn về mặt tư liệu, nhưng ở đây nhà thơ lại có một khoảng cách rộng, vẫy vùng thoải mái hơn, dễ « tàng hình » hơn để nói lên đầy đủ hơn tư tưởng tình cảm của mình. Điều này sẽ đặc biệt nổi bật khi ta đối chiếu chẳng hạn nhân vật lịch sử Hoàng Sào trong Thơ chữ Hán với nhân vật hư cấu Từ Hải của Truyện Kiều. Nhưng cả hai nhân vật thật và không thật ấy sẽ bổ sung cho nhau để soi sáng một quan điểm phức tạp vào bậc nhất về tư tưởng chính trị trong thế giới quan Nguyễn Du.

Hãy nhắc qua bối cảnh xã hội — lịch sử sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du. Điều nổi bật nhất là thời đại Nguyễn Du thuộc giai đoạn cuối cùng cả một quá trình ngót ba trăm năm suy sụp của chế độ phong kiến Việt Nam và mở đầu cho bước « phản ứng trung cổ » của triều đình nhà Nguyễn. Trong ngót ba trăm năm, chiến tranh phong kiến, chiến tranh nông dân, chiến tranh dân tộc kế tiếp nhau triền miên kéo theo bao nhiêu cuộc "thay đổi sơn hà ", thay bậc đổi ngôi và đảo lộn xã hội, đưa tới phân hóa đến cao độ trong tầng lớp nho sĩ. Thời đại Nguyễn Du có thể xem như thời cao điểm của hoang mang và bế tắc trong tầng lớp sĩ phu. Danh không chính thì ngôn không thuận, danh nghĩa mơ hồ thì lời nói cũng mơ hồ, lúng túng, thậm chí mâu thuẫn. Nguyễn Du chính là bị đặt vào cái tình trạng:
Ăn làm sao, nói làm sao bây giờ
Nguyễn Du trước hết là một nhà nho, thế nhưng trong Truyện Kiều cũng như trong thơ chữ Hán có cả nho giáo, phật giáo, và đạo giáo. Ông quý trọng tấm « cô trung » của Khuất Nguyên hay của Văn Thiên Tường, nhưng ông lại chê Phạm Tăng «quá trung thành với người mình thờ  và chính bản thân ông đã ra làm quan với Gia Long. Ông viết trong Truyện Kiều.
Tu là cõi phúc tình là dây oan
Nhưng ông đã chẳng đưa thẳng Thúy Kiều lên  sau khi lấy nước sông Tiền đường rửa oan cho nàng, mà lại bắt nàng tái hợp để làm "vợ hờ" của Kim Trọng hay tu cho «trót» cho "qua thì". Ông từng ước mơ về ẩn trong « xóm nhỏ trên núi Hoàng Mai»  nhưng rút cục cái mộng " rau thuần cá vược " của ông chỉ là ở trên giấy mà chính ông thì "trở thành vật trong lồng cũi " .

Rõ ràng là tư tưởng Nguyễn Du hoang mang, bế tắc, thế giới quan ông mang rất nhiều mâu thuẫn sinh ra từ những mâu thuẫn xã hội. Nếu ông xem mình là kẻ " độc tỉnh " như Khuất Nguyên thì dường như ông chỉ tỉnh táo ở duy một điểm, đó là ông đã phản ánh hết sức đậm nét trong văn thơ ông cái hoang mang, bế tắc của giai cấp ông, cái mục ruỗng cùng cực của chế độ phong kiến đang suy sụp, và đó chính là mặt thắng lợi của chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du.

Song, nếu học thuyết, tôn giáo không đủ tin cậy thì con người chỉ còn duy một cách là bám sát thực tiễn, tìm ánh sáng trong thực tiễn đời sống xã hội, đời sống dân tộc. Thế mà dân tộc Việt Nam có đầu óc thực tiễn rất cao. Đấu tranh tự nhiên, đấu tranh xã hội (kể cả đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc  trong những điều kiện đặc biệt khắc nghiệt đã mài sắc óc thực tiễn cũng như tinh thần lạc quan của nhân dân. Những học thuyết, tôn giáo từ nước ngoài vào, Nho, Phật, Lão Trang, đều qua thực tiễn Việt Nam mà được nhân dân hóa, và đặc biệt những yếu tố tích cực của các học thuyết, tôn giáo ấy, như « nhân nghĩa », « ý dân là ý trời », " nhân định thắng thiên được khai thác, vận dụng, kết hợp với lương tri nhân dân để trở thành triết lý, đạo đức dân gian.

Nguyễn Du người con ưu tú của dân tộc ấy, không thể không tiếp thu tinh thần thực tiễn truyền thống của nhân dân. Ông đã từng viết:
  Thầm đọc bài ca " Hỏi trời "
Trời cao biết đâu mà hỏi?
Tựu trung có thể dựa trên tinh thần thực tiễn đó mà giải thích giằng co giữa lý thuyết và hành động, cũng như mâu thuẫn tư tưởng trong Thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Về Truyện Kiều, tôi đã có lần nhận xét rằng nó là biểu hiện của cuộc đấu tranh, xung đột giữa triết lý duy tâm và tinh thần thực tiễn. Cần nhận thấy rằng trong Truyện Kiều, triết lý duy tâm được biểu hiện  chủ yếu thông qua những hình tượng nhân vật mờ nhạt về mặt nghệ thuật như Đạm Tiên, Tam hợp đạo cô, hay những lời lẽ mang tính chất phát ngôn giáo điều, trái lại tinh thần thực tiễn thấm nhuần những nhân vật tích cực  nhất là Thúy Kiều, điển hình của người phụ nữ Việt Nam trung hậu, đảm đang, những hình tượng nhân vật này cùng với những nhân vật phản diện, sinh động với chất lượng nghệ thuật cao, khả dĩ đánh bạt được những bóng ma Đạm Tiên hay đạo cô Tam hợp.

Điều đáng chú ý là Truyện Kiều thấm nhuần tinh thần thực tiễn đến mức bất cứ cảnh ngộ, tình huống nào của cuộc sống và con người cũng có thể tìm thấy trong tác phẩm những lời tương ứng khiến ở người xưa đã có thể nảy nở thói quen " bói Kiều " "lẩy Kiều ". Điều này cũng nói lên Nguyễn Du hiểu biết nhân tình thế thái, hiểu biết con người và cuộc đời sâu sắc đến mức nào. Cuối cùng  mặc dầu phát ngôn chính thức của nhà thơ như thế nào, ở Truyện Kiều, chủ nghĩa lạc quan yêu đời, tinh thần chủ động và tích cực xây dựng cuộc sống của con người vẫn thắng. Và điều này lại một phần được thể hiện một cách đặc biệt Việt Nam trong cái kết thúc có hậu của Truyện Kiều.

Một số người chê trách đoạn đoàn viên. Kiều gặp lại Kim Trọng, là công thức, thậm chí cho rằng nó "không có một tí nội dung hiện thực nào ". Cũng có người quen với phong cách tiểu thuyết phương Tây thiên về kịch tính, ưng kết thúc Truyện Kiều ở tấn bi kịch sông Tiền Đường. Thiết tưởng, đoạn đoàn viên có mặt không hiện thực mà cũng có mặt hiện thực của nó. Nguyễn Du kết thúc Truyện Kiều có hậu trước hết là tuân theo một phong cách văn học dân tộc thích hợp với tâm lý con người Việt Nam, tránh cái cực đoan trong kịch tính, ưa cái đôn hậu thủy chung, nó cũng là một khía cạnh của tinh thần thực tiễn, tinh thần lạc quan cố hữụ của dân tộc. Cảnh đoàn viên có mặt hiện thực của nó là vì, dù nó xảy ra như một trường  hợp cá biệt hay ngẫu nhiên, nó vẫn tô đậm tính bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều một cách khác:
Dở dang nào có hay gì ?
Đã tu, tu trót,qua thì,thì thôi !
Mặt khác, nó lại phù hợp với một ước mơ phổ biến của nhân dân, hơn thế, nó là yêu cầu tha thiết của nhân dân ta trong cái thời đại chiến tranh, loạn lạc kéo dài ấy, với bao nhiêu cảnh gia đình ly tán, tan tác.

Bây giờ đi hẳn vào cái thuyết «tài mệnh tương đố».Hãy nhắc lại rằng Nguyễn Du không thu hẹp nội dung chữ tài vào tài hoa, tài tình. Trong thơ chữ Hán, vấn đề rất rõ. Thậm chí "nhân thương con chó chết ", ông cũng viết:
Phàm những người sinh ra có khí phách khác thường “Thì trời đất vẫn hay ghen ghét”
Thật ra cái thuyết siêu hình « tài mệnh tương đố » có cơ sở thực tế, cơ sở xã hội của nó, và nó có tính chất phổ biến, nghĩa là nó nảy sinh bất cứ chế độ xã hội nào có đấu tranh giai cấp, có áp bức bóc lột, khi người ta chưa nhận thức được đầy đủ vấn đề đấu tranh xã hội và quan niệm những lực lượng xã hội như những thế lực siêu nhiên. Trong xã hội phong kiến, tài được quan niệm một cách trừu tượng mà mệnh thì là một yếu tố siêu nhiên, và vấn đề xung đột giữa tài và mệnh mang tính chất trừu tượng, siêu hình. Đến xã hội tư bản, khi người ta đã ý thức được rõ hơn vai trò và quyền lợi cá nhân cũng như vấn đề đấu tranh xã hội thì thuyết " tài mệnh tương đố " chuyển hóa thành vấn đề cụ thể hơn, đó là vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân tài năng và xã hội, rồi, đi đến chung hơn, nó được mở rộng thành vấn đề mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội. Vấn đề này trở thành đề tài chung của rất nhiều tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XIX. Nhưng dù ở trình độ nhận thức nào đi nữa thì thực chất xã hội của vấn đề vẫn là một, và khi hiểu được, như chúng ta ngày nay, tài năng cá nhân là kết tinh trí tuệ và nghị lực của quần chúng nhân dân thì vấn đề càng có ý nghĩa xã hội rộng lớn. Cuối cùng, về thực chất, đó là vấn đề quyền sống của con người và vấn đề chế độ xã hội.

Tựu trung, Truyện Kiều, mà Nguyễn Du muốn thu hẹp vào cái chủ đề " tài mệnh ghét nhau", có ý nghĩa khách quan, ý nghĩa xã hội rộng lớn vượt xa chủ đề đó, vượt xa tư tưởng chủ quan của tác giả, nó đề cập tới vấn đề quyền sống của con người trong xã hội phong kiến. Điều đáng chú ý là những lực lượng xã hội mà nhà thơ nhận thức một cách siêu nhân thì khi đi vào hình tượng nghệ thuật lại hiện ra như một lực lượng vật chất là đồng tiền:
Trong tay đã sẵn đồng tiền
Đầu lòng đòi trắng thay đen khó gì
Hay như những con người cụ thể, có xác có hồn hẳn hoi, kể từ Hồ Tôn Hiến, mẹ con Hoạn Thư, các bọn sai nha, Ưng khuyển, và cả bọn Tú Bà, Mã Giám Sinh... chính chúng là " ma đưa lối quỷ đem đường", đồng phạm gây nên kiếp đoạn trường của Thúy Kiều.

Trong Thơ chữ Hán, cũng vấn đề "tài mệnh" nhức nhối ấy được Nguyễn Du thường xuyên đặt ra:
Người có tài thường bị văn chương ghét ghen
Thịt người thì ma quỉ thích nhất
Ma quỉ ăn thịt người đó là ai, chúng ta đã biết. Và Nguyễn Du khái quát hóa trong bài Phản chiêu hồn cũng như ông khái quát hóa cho tất cả mọi kiếp người trong Văn tế chiêu hồn. Những lời thơ ấy nếu đạt tới cái bi  tráng của Mac-bet thì cũng đồng thời bao hàm cái lời tự vấn "tồn tại hay không tồn tại" (to be or not to be) của Ham-let.
Hồn ơi ! Hồn ơi ! Hồn làm thế nào ?
Câu hỏi bi thương vô hình trung đã đặt vấn đề quyền sống của con người, vấn đề đặc biệt bức thiết của thời đại Nguyễn Du.
TRẢI QUA MỘT CUỘC BỀ DÂU
Điều trước tiên phải nói là ở đây không phải cái thuyết tuần hoàn " bãi bể nương dâu " trừu tượng, chung chung, mà là những biến thiên, vật đổi sao dời cụ thề xảy ra trong mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều, hay trong khoảng trăm năm của cuộc đời một con người, cụ thể là cuộc đời Nguyễn Du. Chính những biến thiên dồn dập trong thời đại Nguyễn Du đã tạo nên ở nhà thơ, chưa phải là một quan điểm lịch sử hay chủ nghĩa lịch sử hiểu một cách khoa học như chúng ta ngày nay, mà là một thứ " cảm quan lịch sử", theo ý chúng tôi, nó bao gồm cảm giác thời đại và mường tượng mơ hồ về tương lai.

Nguyễn Du ý thức sâu sắc về cuộc đời trước mắt, về thời đại của mình, mối quan tâm day dứt, nhức nhối của ông là  chuyện đương thời:
Tráng tâm tịch mịch phụ cả cây đoản kiếm
Nỗi buồn lữ thứ càng tiêu điều khi nghe khúc ca đương thời "
Trước hết vì chuyện vật đổi sao dời là chuyện thiết thân của chính ông và gia đình ông. Bản thân Nguyễn Du đã trải qua " mười năm gió bụi","xiêu giạt đến bạc đầu ". Nghĩa là, cũng như Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trải qua một cơn " gia biến nhưng ở đây nó có tầm rộng lớn hơn nhiều, bởi nó gắn với những cuộc "thay đổi sơn hà", thay đổi triều đại có ý nghĩa lịch sử. Trong khoảng hai mươi năm (1782 — 1802) đã xảy ra đến bốn cuộc thay đổi: Trịnh, Lê, Tây Sơn, Nguyễn, mà trong đó lại xuất hiện một triều đại ngoại lệ, với một ông vua « áo vải cờ đào» làm nên hai cuộc chiến thắng ngoại xâm kinh thiên động địa. Suốt cả hàng ngót nghìn năm phong kiến Việt Nam, những biến chuyển lần này là chưa từng  thấy và mang tính chất rung chuyển chế độ, trong đó binh lính và nông dân, tức là quần chúng nhân dân, dự một phần vai trò chủ động. Thiết tưởng những chuyện đó không thể không tác động đến thế giới quan cùa nhà thơ ưu tú rất mực nhạy cảm và rất mực lo đời, nó tạo cho ông hơn cho ai hết cái cảm giác thời đại sắc nhọn thế tất phải đi vào văn thơ của ông.

Song, cảm giác thời đại của Nguyễn Du không chỉ biểu hiện trong những bài ký sự bằng thơ chữ Hán nóng hổi tính thời sự mà nó cũng bộc  lộ trong Truyện Kiều. Thật ra, cơn «gia biến» của Thúy Kiều và cả cuộc đời " thanh lâu hai lượt thanh y hai lần " của nàng cũng dễ chìm đi trong cái khuôn sáo « hồng nhan bạc mệnh » của xã hội phong kiến nghìn năm. Như vậy cảm giác thời đại cũng dễ mờ nhạt. Thế nhưng, đã có một người khác thường đi vào cuộc đời Thúy Kiều:
Bỗng dưng lại có một người
người ấy đã
Vẫy vùng, trong bây nhiêu niên
Làm cho động địa kinh thiên đùng đùng
Chính con người đó thật sự đã làm nổi bật cái cảm giác thời đại trong Truyện Kiều. Hơn thế nữa, chính nhân vật đột xuất đó thể hiện rõ nét cái  cảm quan lịch sử chớm nở trong thế giới quan Nguyễn Du. Nhân vật đó là Từ Hải.

Song, sự kiện Từ Hải lại là vấn đề cho đến nay vẫn dang còn gây nhiều tranh luận trong giới nghiên  cứu văn học. Tựu trung, câu hỏi đặt ra là nhân vật Từ Hải có liên quan gì với người anh hùng Nguyễn Huệ, và thái độ của Nguyễn Du đối với triều đại Tây Sơn là như thế nào ?

Người ta thường nói đến tấm lòng « cô trung » của Nguyễn Du đối với nhà Lê. Tấm cô trung này là có thật, thậm chí nó còn dai dẳng như một " trường hận" kiểu tấm lòng của Hônôrê đơ Bandăc đối với giai cấp quý tộc. Song, trên cơ sở của tinh thần  thực tiễn, cơ thể phân biệt hai thứ cô trung: một là lòng trung đối với một triều đại để chống giặc ngoại xâm, như cô trung của Văn Thiên Tường hay Nhạc Phi, đó  là thứ cô trung kiên cường; hai là lòng trung đối với một triều đại này để chống một triều đại khác trong cuộc tranh chấp nội bộ phong kiến, như cô trung của Khuất Nguyên hay Phạm Tăng, mà thứ cô trung này thì kém phần kiên cường, cho nên Nguyễn Du đã có thể chê Phạm Tăng là « không biết mệnh trời». Tấm cô trung của Nguyễn Du chính là thuộc loại thứ hai cho nên ông đã có thể đi theo nhà Nguyễn mà vẫn luyến tiếc nhà Lê.

Thế thì đối với nhà Tây Sơn, thái độ của Nguyễn Du là thế nào? Triều đại Tây Sơn chung quy cũng là một triều đại phong kiến, chỉ mỗi tội nó là phong kiến " áo vải "không chính thống. Nhưng nó đã đánh bại hai cuộc ngoại xâm trong khi kẻ đại diện cuối cùng của nhà Lê chính thống lại chạy theo giặc. Lẽ nào Nguyễn Du lại không thấy rõ điều đó ? Cho nên nếu có hai thứ cô trung thì cũng có hai  thứ chống đối: một là chống đối quyết liệt như Phạm Thái, hay  như Nguyễn Quýnh, một anh ruột của Nguyễn Du, đánh Tây Sơn hẳn hoi; hai là chống đối không quyết liệt mà nếu dùng đúng chữ  thì phải gọi là bất hợp tác, như trường hợp của nhiều  nho sĩ  Bắc hà thời bấy giờ.

Cứ theo gia phả họ Nguyễn Tiên điền thì dường như Nguyễn Du  chống đối quyết liệt. Song, gia phả đó được viết dưới triều đại nhà Nguyễn thì có chỗ phải dè dặt. Cả ba anh em cùng mẹ của Nguyễn Du, gia phả đều ghi là năm 1789 đều « không chạy theo kịp» Lê Chiêu Thống, phải chăng mấy chữ « không chạy theo kịp » chỉ là một lối nói thoái thác để " chiêu tuyết " ? Thế mà quan hệ giữa Nguyễn Du với anh rể là Đoàn Nguyễn Tuấn và anh ruột là Nguyễn Nễ, những người đi theo Tây Sơn ấy, là khá mật thiết. Thái độ như thế phải đâu là chống đối quyết liệt ?

Trong Thơ chữ Hán có hai bài nói đến Tây Sơn là bài Vị Hoàng doanh và bài Long thành cầm giả ca, đều không có một ý gì là chống đối Tây Sơn mà chỉ nói lên mối cảm khái trước cảnh vật đổi sao dời. Thậm chí bài thứ hai " dường như nhớ tiếc cả Tây Sơn nữa " (như Hoài Thanh đã nói):
Cơ nghiệp Tây sơn tiêu vong hết
Mà còn sót lại một người trong làng ca múa.
Người ta sẽ bảo, thế năm 1796, Nguyễn Du đã chẳng mưu toan vào Gia Định theo Nguyễn Ánh và bị Tây Sơn cầm tù đó sao? Thiết tưởng cần chú ý rằng năm 1796 là lúc Nguyễn Huệ đã qua đời từ bốn năm rồi, và những người kế nghiệp ông bất tài đã đưa sự nghiệp Tây Sơn mau đến chỗ suy vong. Người ta rất có  thể tự hỏi một cách chính đáng rằng có lẽ nào một người như Nguyễn Du, mà lòng yêu nước, tinh thần dân tộc là không chối cãi   được, lại không có chút tự hào nào về chiến thắng oanh liệt của Nguyễn Huệ đánh bại hai mươi vạn quân nhà Thanh? Và tại sao lại chẳng thể nghĩ rằng trong khoảng 1789 — 1796, dường như Nguyễn Du ở vào cái thế chờ đợi nghe ngóng đối với nhà Tây   Sơn, cụ thể là đối với Quang Trung. Và như thế, vô hình trung, chúng ta buộc phải xét đến mối liên quan giữa Nguyễn Huệ và Từ Hải trong Truyện Kiều.

Với mối băn khoăn đi tìm một ánh hồi quang của sự nghiệp người anh hùng Nguyễn Huệ trong văn thơ của thi sĩ kiệt xuất đồng thời Nguyễn Du, người ta tự hỏi Nguyễn Du đã dựa trên cơ sở hiện thực xã hội nào mà sáng tạo nhân vật Từ Hải vượt rất xa nhân vật Từ Minh Sơn của Thanh Tâm tài nhân. Rõ ràng sự xuất hiện của Từ Hải đã thổi vào Truyện Kiều một hơi thở sử thi hào hùng mà nguồn cảm hứng chỉ có thề tìm thấy ở một sự nghiệp anh hùng như của Nguyễn Huệ:
Thừa cơ trúc chẻ ngói tan
Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài...
Những lời thơ hừng hực khí thế Bình Ngô đại cáo ấy chỉ có thể bắt nguồn từ những chiến công như Ngọc Hồi. Đống Đa.

Theo tôi nghĩ, trong những điều kiện lịch sử — xã hội như đã nói ở trên, sự nghiệp anh hùng của Nguyễn Huệ không thể được phản ánh trực tiếp, mà chỉ có thể được khúc xạ vào Truyện Kiều. Điều đáng chú ý là khi sáng tạo Từ Hải, Nguyễn Du chắc hẳn đã có chỗ liên hệ với Hoàng Sào. Nhưng nếu ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đã mượn cái bụng dạ đàn bà của Thúy Kiều để chê Hoàng Sào, thì trong bài thơ chữ Hán Hoàng Sào binh mã, nhà thơ lại trực tiếp bộc lộ niềm thông cảm, tuy dè dặt với người lãnh tụ khởi nghĩa nông dân ấy, một nho sĩ bị hỏng thi. Chi tiết này giải thích được một phần lai lịch của Từ Hải mà tôi đã cố lần bàn đến Từ Hải với cái phong thái « gươm đàn nửa gánh non sông một chèo » quả là bóng dáng của một nho sĩ bất đắc chí mà ngang tàng như Hoàng Sào của Trung Quốc, hay như một Phạm Công Thế, một Cao Bá Quát của Việt Nam mà Nguyễn Du rất dễ cảm thông dù ông chưa hoàn toàn cảm thông với khởi nghĩa nông dân. Như vậy Từ Hải chẳng phải là hình ảnh trực tiếp của Nguyễn Huệ nhưng điều này không ngăn cản Nguyễn Du tìm cảm hứng trong sự nghiệp của Nguyễn Huệ để sáng tạo nhân vật Từ Hải.

Hình tượng Từ Hải, mặc dầu có hạn chế, vừa hiện thực vừa lãng mạn, từ hàng trăm năm nay đã đọng lại trong lòng nhân dân ta như một ước mơ đẹp thể hiện khát vọng tự do và công lý. Và đặc biệt. Từ Hải là nhân vật quá khổ đã vượt lên trên «thiên mệnh », bởi cái lẽ như Nguyễn Du đã nói về Hoàng Sào:

Người đến lúc cùng cũng có thể làm biến đổi mây gió.

Có thể nói, nhân dân Việt Nam, ở thời đại Nguyễn Du, đã bị phong kiến dồn đến bước đường cùng, cho nên đã sinh ra được người con ưu tú  là Nguyễn Huệ, anh hùng dũng cảm đứng lên tìm con đường giải phóng cho nhân dân. Chỉ tiếc rằng Nguyễn Huệ qua đời quá sớm, chưa tạo được điều kiện xã hội — lịch sử làm cơ sở cho cách mạng xã hội. Tựu trung, sự nghiệp hai mươi năm của Nguyễn Huệ chỉ như một ánh chớp trong cả đêm dài phong kiến Việt Nam. Anh chớp đó tuy nhiên đã có tác dụng lớn là vừa nâng cao lòng tự hào dân tộc vừa củng cố niềm tin và hy vọng ở sức mạnh của nhân dân có thể làm nên sự đổi thay... Cũng như một ánh chớp, Từ Hải xuất hiện trong cuộc đời mười lăm năm oan khổ lưu ly của Thúy Kiều, và  dù sao, với cảnh báo ân báo oán, nó cũng đã nhen lên niềm hy vọng nào đó ở một sự đổi thay, ngày mai sẽ dẹp sạch mọi áp bức bất công ở đời. Cho nên nói cảm quan lịch sử ở Nguyễn Du bao gồm cả cảm giác thời đại và mường tượng mơ hồ về tương lai là như thế.

NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY MÀ ĐAU ĐỚN LÒNG

Trong Truyện Kiều vang lên và lặp lại như điệp khúc những tiếng thương tâm, đau lòng, đoạn trường, cũng như trong Thơ chữ Hán hay trong Văn tế chiêu hồn. Điệp khúc não nuột, nát lòng nói lên tấm lòng lo đời, thương con người, xót xa, mênh mông của nhà thơ. Tuy nhiên Nguyễn Du không rơi vào bi lụy, bi quan, bởi lòng ưu ái của ông vừa là mối cảm thông sâu sắc với mọi đau khổ cơ cực của những người bị áp bức, vừa là mối căm hờn phẫn nộ đối với những kẻ đi áp bức và tất cả bọn " bạc ác tinh ma ", bọn «quỉ ăn thịt người», và do đó, giữa đau thương quằn quại vẫn có phản ứng, trỗi dậy, giữa « đêm trường dạ » vẫn le lói ước mơ, hy vọng. Đây chính là một chủ nghĩa nhân đạo tích cực đặt cơ sở trên mối quan tâm tha thiết tới số phận con người, nó đặt ra vấn đề " quyền sống con người " với câu hỏi bức thiết:
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?
Chính trong Thơ chữ Hán, tấm lòng nhân ái bao la của Nguyễn Du được bộc lộ trực tiếp, rõ ràng: cùng với niềm thương tiếc những tài năng bị vùi dập là lòng cảm thông rộng lớn, không phân biệt dân tộc, đối với những người lao động như một bác kiếm củi, một anh đẩy xe; lòng xót thương đối với những người nghèo khổ, như một ông lão hát rong, những nông dân mất mùa bị đói phải «làm loạn hay bốn mẹ con vì đói phải đi ăn xin đến chết ở dọc đường, lòng xót thương rung chuyển cả đất trời:

(Trông lên) trời, mặt trời vàng úa

Trong xã hội phong kiến và  nói chung trong xã hội cũ, phụ nữ là hạng người xấu số nhất, bị vùi dập nhiều nhất. Cho nên Nguyễn Du thương xót trước hết là số phận người phụ nữ. Hai lần ông cất lên tiếng than đứt ruột, như một tiếng nấc:
Đau đớn thay phận đàn bà
Điều đáng chú ý là Nguyễn Du nhận rõ rằng phụ nữ trong xã hội cũ ở bất cứ địa vị nào cũng bị chà đạp,, nhất là ở thời đại ông cái số phận của những kẻ " màn lan trướng huệ" thật là thê thảm một khi " thay đổi sơn hà ".

Nhưng Nguyên Du đặc biệt giỏ nước mắt vì hai hạng phụ nữ: trước hết là những kĩ nữ mà ông nói đến nhiều lần và ông thâu tóm số phận trong hai câu thơ não nùng:
Sống làm vợ khắp người ta,
Hại thay chết xuống làm ma không chồng
Song, bên cạnh những kẻ «không chồng» ấy lại có  những người chịu một số phận  không kém phần thảm hại, đó là những kẻ « chung chồng ». Hoặc là những kẻ làm lẽ, như Tiểu Thanh phải chết dần chết mòn, đến nỗi một chút văn chương để lại sau khi chết cũng cũng bị vợ cả đốt đi. Nhưng Nguyễn Du không nhìn một chiều, ông lại hiểu thấu cả cái cảnh :
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai
Của người vợ cả. Và điều này cho thấy cái độ lượng và thấu suốt tình người của Thúy Kiều, khi nàng cho tha bổng Hoạn Thư trong cuộc báo ân báo oán.

Điều quan trọng nhất là đối với phụ nữ, tư tưởng Nguyễn Du có hai điểm tiến bộ vượt thời đại của ông: một là, ông bênh vực quyền tự do trong tình yêu của phụ nữ mà tiêu biểu là tình yêu của Thúy Kiều đối với Kim Trọng đã khiến cho khống ít nhà nho đã chau mày; hai là ông đã đưa ra một quan niệm táo bạo về chữ " trinh " làm sửng sốt bao nhiêu người ngay cả ở thời đại ngày nay. Tố Như đã " chiêu tuyết" cho Thúy Kiều :
... Hoa tàn mà lại thêm tuơi,
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Hơn một trăm năm trước khi Tố Hữu đáp lời cô gái sông Hương:
Răng không cô gái trên sông
Ngày mai em sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương  nhụy hoa lài..,
LỜI QUÊ CHẮP NHẶT DÔNG DÀI
Chính là qua " mười năm gió bụi ", lưu lạc khắp nơi, cùng với nhân dân sướng khổ vui buồn, thực tiễn đời sống xã hội, đời  sống dân tộc đã rèn luyện Nguyễn Du thành nhà thơ vĩ đại.

Trong bài thơ chữ Hán Thanh minh ngẫu hứng, Nguyễn Du đã viết :
Câu hát thôn dã giúp ta biết những tiềng nói trong nghề ... trồng dâu gai.

Như vậy khi ông viết " lời quê ", chẳng phải chỉ là nhà thơ khiêm tốn, mà ông cũng nói lên một sự thật là: khi viết Truyện Kiều, ông đã mượn lời ăn tiếng nói của nhân dân. Thực tế, không kể những yếu tố đạo đức, triết lý bình dân nằm trong ca dao tục ngữ được Nguyễn Du sử dụng rất nhiều, như:
Sợ khi ong bướm đãi đàng
Đến điều sống đục sao bằng thác trong
Truyện Kiều đã tiếp thu của văn học dân gian cả ngôn ngữ và thể tài. Song, ngôn ngữ và thể tài hình  thành trên cơ sở thực tiễn đời sống xã hội, đời sống dân tộc. Và sở dĩ Truyện Kiều vượt lên trên tất cả các truyện thơ nôm đương thời, chính là vì Nguyễn Du đã sống cái thực tiễn đó mãnh liệt hơn cả, sâu sắc hơn cả. Đến mức Nguyễn Du đưa ngôn ngữ dân tộc (chữ nôm) và thể tài dân tộc (thể truyện và thơ lục bát) lên đỉnh cao rực rỡ chưa từng thấy, cũng như thi hào Pu-skin của Nga.

Nguyễn Du không chỉ tiếp thu mà ông còn nâng cao. Một mặt ông nâng cái dung tục lên thành cái văn học, cái đơn điệu lên thành cái muôn điệu. Hoặc là ông lấy lời văn chương để biểu thị cái nôm na:
Biết thân đến bước lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung
Hoặc biến lời nôm na thành văn chương:
Mụ già hoặc có điều gì
Liều công mất một buổi quỳ mà thôi
Thơ lục bát dễ rơi vào cái đơn điệu, tẻ nhạt, Nguyễn Du đã bằng khắc họa, tạo hình, bằng nhạc điệu, tiết tấu, làm cho nó thành phong phú, muôn điệu muôn vẻ, khi thì dịu dàng, êm ả, khi thì dồn dập, dai dẳng, sôi sục cồn cào. Thật là thiên biến vạn hóa. Cấu trúc thơ thay đổi theo cấu trúc của tình huống, tâm tư. Nhịp độ thơ là nhịp độ của cả thời gian khách quan và thời gian tâm lý, mà thời gian thì trở thành « chiều thứ tư » của sự vật và tâm hồn:
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài  ghê
Song Nguyễn Du lại là một nhà thơ uyên thâm về Hán học, về văn học, lịch sử Trung Quốc, cho nên ông cũng tiếp thu nhiều yếu tố bên ngoài. Nhưng, với tinh  thần dân tộc cao, tính nhân dân sâu sắc, cũng như Hồ Xuân Hương đã Việt Nam hóa thể thơ thất ngôn Trung Quốc, Nguyễn Du đã nhân dân hóa , Việt Nam hóa những yếu tố vay mượn của nước ngoài. Từ những điển cố, điền tích:
Sông Tương một dải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia
Cho đến những qui phạm, ước lệ, dễ rơi vào khuôn sáo, " hóa thạch ", Nguyễn Du đã thổi vào đó một linh hồn, một hơi thở nóng hổi của cuộc sống:
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu,
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Như vậy, rõ ràng quy phạm, ước lệ hay tượng trưng không hề cản trở Nguyễn Du đi vào chủ nghĩa hiện thực, mà chính là chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du đã có chỗ phá vỡ quy phạm khuôn sáo. Vả chăng, ước lệ hay biểu tượng chẳng phải là món độc quyền của mỹ học phong kiến, như có người nghĩ, trái lại, chủ nghĩa hiện thực trong Văn học hiện đại không khước từ ước lệ, biểu tượng, và cả huyền thoại,  trong những trường hợp thích đáng, phù hợp với những mặt nhất định của cuộc sống hiện đại đa dạng và phức tạp.

Cho nên, có thể nói rằng chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du đã hình thành trên  sự rạn vỡ của mỹ học phong kiến cũng như sự suy sụp của hệ ý thức phong kiến nói chung. Một mặt khác nó đã tiếp thu một cách sáng tạo những yếu tố hiện  thực chủ nghĩa phong phú của văn học dân gian.

Để kết luận, theo ý tôi, có thể xem Nguyễn Du như người mở đầu cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam. Chủ nghĩa hiện thực ở bước đầu đó có những hạn chế và mang những đặc thù do điều kiện xã hội — lịch sử và cũng do thế giới quan của nhà thơ: có thể gọi đó là chủ nghĩa hiện thực tâm lý — trữ tình tạo nên cái âm hưởng chủ đạo cho cả nền văn học đương thời.
 
ĐỖ ĐỨC DỤC



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét