Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

NHÀ CỦA NGƯỜI M’NÔNG R’LÂM, HUYỆN LẮK, ĐẮK LẮK TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA TÂY NGUYÊN


Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, văn hóa được hiểu là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử. Đây là định nghĩa chung nhất về văn hóa được các nhà nghiên cứu chấp nhận. Cũng theo quan điểm trên, chúng tôi quan niệm: mọi thứ thuộc về con người đều là văn hóa, không có bất kì sự phân biệt nào giữa các nền văn hóa và trong khái niệm văn hóa không tồn tại cổ hủ, lạc hâu, hay văn minh, tiến bộ. Có chăng, chỉ là sự khác biệt về cách thức thể hiện, biểu hiện của từng dân tộc, từng tộc người mà các nhà nghiên cứu vẫn gọi là độ khúc xạ văn hóa trong quan hệ lựa chọn. Có thể nói, văn hóa là nét chung của dân tộc, đồng thời, cũng là tạng riêng của mỗi tộc người. Một dân tộc có nhiều tộc người, các tộc người có thể phân bố rải rác ở nhiều khu vực khác nhau. Như người Kinh ở khu vực núi cao có tập quán khác người Kinh ở khu vực đồng bằng. Vậy, chính tập quán đã tạo nên cái riêng trong văn hóa mỗi tộc người, mỗi mảnh đất. Tuy nhiên, tập quán lại do đặc trưng tự nhiên quyết định. Nếu xét tường tận, sự khác biệt văn hóa là do đặc trưng tự nhiên của từng vùng phân định, sau đó, được con người cải biến thành một nếp riêng truyền từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác mà thành.


Đặc trưng lớn nhất của con người sinh tồn trên mảnh đất Tây Nguyên chính là nếp sống nương rẫy, không ổn định, tạm bợ, nay đây mai đó. Toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc Tây Nguyên gắn liền với núi rừng và nương rẫy – văn hóa rừng. Nếu thay đổi đời sống nương rẫy là thay đổi gốc gác vốn có của lịch sử tây nguyên. Văn hóa vùng Trường Sơn –Tây Nguyên là mẫu hình của một trình độ phát triển văn hóa của các dân tộc Việt Nam ở giai đoạn tiền nhà nước, tiền giai cấp. Văn hóa rừng quy định từ nếp nghĩ đến hành xử của con người tây nguyên. Điều ta dễ thấy nhất là nơi lưu trú của họ: rộng là bon, là buôn, nhỏ là nhà.

Nhà là nơi cư ngụ của mọi vật, con chim trên rừng lấy tổ làm nhà, con cá dưới khe lấy khe đá làm nhà, cây lồ ô, cây tre lấy rừng làm nhà. Người tây nguyên dựng nhà những ngôi nhà dài cả một hơi chiêng, một hơi ngựa chạy, là những ngôi nhà Rông đêm đêm bập bùng ánh lửa thổi hồn sống cho mảnh đất hoang sơ này. Nhà của người tây nguyên tồn tại với ba dạng chính với ba chức năng cơ bản: nhà ở - nơi sinh hoạt hàng ngày; nhà sinh hoạt cộng đồng – nơi phục vụ nhu của cộng đồng; nhà mồ - là nơi chôn cất người chết.

1. NGƯỜI M’NÔNG R’LÂM – CƯ DÂN VÙNG HỒ LẮK

Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Henri Maitre trong Rừng người thượng xác định: Nhóm người M’nông ở phía Tây gồm các dòng tộc mà phương ngữ mẫu hình là tiếng M’nông nói trong vùng hinterland kề với Cambodge. Nhóm người M’nông ở phía Đông, nhóm này gồm nhiều dòng tộc khác nhau sống trong các vùng núi và không phải là bộ phận của người M’nông ở phía Tây. Rút sâu vào một vùng rất khó thâm nhập và khó khăn, họ được một nền đất rất khắc nghiệt bảo vệ và khắ chắc chắn là họ còn giữ được mình gần hơn cả với tình trạng nguyên thủy, do vậy hẳn phải gần các bộ lạc ở phía Bắc cũng sống ở những vùng tương tự và cũng được che chở bởi núi non hoang dã mà họ đã trốn vào đấy [1; 146]. Người M’nông ở Huyện Lắk chủ yếu là người M’nông R’Lâm (Rlam). Người Rlam thường bị gọi sai thành Rolum hay Rlim, họ chỉ riêng sống ở khi đầm lầy của hồ Tak-Lak và các đầm lầy liền với khu trung lưu sông Kr. Hana, về phía Tây. Bộ lạc này, tập trung trong một vùng hẹp, có mật độ dân rất cao và sống trong những làng lớn. Họ biến các đầm lầy thành đồng ruộng và hầu như chỉ khác người Pih ở sát ngay cạnh về mặt phương ngữ. Hai bộ lạc này có nhiều điểm chung; đặc biệt là cùng làm nhà sàn theo kiểu như người Radé. [1; 147]

Người M’nông sinh sống tại địa bàn Huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk vẫn giữ những đặc thù của tộc người M’nông cổ. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có một số dị biệt. Một phần, bởi đặc điểm của địa hình cư trú, một phần, bởi sự giao thoa ảnh hưởng giữa các dân tộc, đặc biệt là người kinh và chịu ảnh hưởng khá rõ nét của người Pháp trong thời kì bị cai trị. Ví như, ngoài canh tác nông nghiệp cổ truyền, người M’nông ở địa bàn huyện còn canh tác các loại cây công nghiệp lâu năm: cà phê, tiêu, điều… (ảnh hưởng của Pháp); hay giao lưu buôn bán; làm du lịch… Do ảnh hưởng và đòi hỏi để phát triển du lịch họ vẫn duy trì được những sinh hoạt văn hóa đặc thù của cộng đồng. Bên cạnh đó, lối sống và sinh hoạt hàng ngày cũng có những thay đổi đáng kể. Nhưng nhìn chung, người M’nông ở huyện Lắk còn bảo lưu đuợc nhiều nét đẹp văn hóa cổ truyền. Trong đó, nhà truyền thống là nét văn hóa độc đáo nhất.

 Với sự phát triển của xã hội, người người nhà nhà thay đổi phong tục tập quán của ông cha để kịp hòa vào lối sống hiện đại thì bên hồ Lắk vẫn thấp thoáng những nếp nhà cỏ tranh vương khói mỗi sớm mai hay khi tà huy rủ bóng. Tuy đã có nhiều thay đổi, nhưng người dân nơi đây đã dần nhận ra giá trị của tinh hoa văn hóa truyền thống của đồng bào mình. Buôn cổ M’liêng, buôn Jun và những buôn làng khác đang được phục dựng để trở thành mẫu hình của văn hóa M’nông trên địa bàn Đắk Lắk.

2. NHỮNG KIỂU NHÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI M’NÔNG R’LÂM
2.1.NHÀ CỘNG ĐỒNG - NHỮNG CÁNH BUỒM NO GIÓ GIƯƠNG LÊN GIỮA RỪNG

Buôn làng người Thượng (cách gọi của Henri Maitre) luôn được định vị hợp lý theo tập quán cổ truyền đều có nguyên tắc chung là gần nguồn nước sạch, cao ráo, thoáng đãng. Vị trí của làng thường có chiều hướng bố cục thoi dần về phía nguồn nước thể hiện tín ngưỡng trọng mẫu của cộng đồng (nước là yếu tố âm tượng trưng cho người phụ nữ): Ðường vào → cổng làng → đường làng → nhà cộng đồng → nhà sàn → nhà kho → ruộng → sông. Hướng làng thường là hướng nam hoặc đông, hướng Tây không tốt nên là vị trí đặt nghĩa địa. Nếu ở những khu vực sông suối nhà phân bố dọc theo chiều của dòng chảy; nếu ở sườn đồi thì nhà phân bố hàng ngang triền dốc và quay mặt xuống phía dưới; những chỗ bằng phẳng thì những căn nhà rìa ngoài thường mở cửa chính hướng vào trong làng. Trong tiếng M’nông buôn làng là boon. Boon thường được bố trí theo hướng Đông – Tây. Tuy nhiên, tùy vào địa hình, họ có thể chọn cho mình những hướng thích hợp.

Trong đời sống của đồng bào nơi đây, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn gắn với cộng đồng, vì thế không gian sinh hoạt cộng đồng là không thể thiếu. Nhà cộng đồng vốn là đặc trưng kiến trúc truyền thống mang những biểu tượng giá trị của làng, thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ dân gian trong kỹ thuật cất dựng, thiết kế đến trang trí. Do cả cộng đồng dựng lên, là nơi tiếp khách, xử kiện, tiến hành nghi lễ thờ cúng, nơi vui chơi, hội hè của cả làng. Trong một boon, ta dễ nhận thấy nhà của tù trưởng ngay khi vừa bước vào làng, dáng mái cao vút vượt hẳn lên các mái nhà sàn khác. Đó chính là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả boon. Một ngôi nhà ở trung tâm sẽ tạo ra sự khởi đầu mới cho cuộc sống cộng đồng ở một cái làng phôi thai. Tại nơi đây, lưu giữ những chứng tích văn hóa nguyên thủy của cả cộng đồng. Đồng thời, nó cũng là biểu mẫu của sự quy tụ, sự cố kết cộng đồng.

Nhà Rông ở người Bana thì cao cút lên theo hình lưỡi búa. Nhà gơl của người Cơtu thì mái ở đầu hồi tròn như hình mu rùa, và làm theo kiểu nhà sàn truyền thống. Còn nhà rông cổ của người M’nông lại được dựng cao vút cong ở khoảng giữa không khác gì một cánh buồm đang no gió. Chính vì đặc điểm của ngôi nhà (mái dạng cong, nhà thường thu hẹp ở sàn như thân của những con thuyền) mà nhiều học giả đã đưa ra nghi vấn, người M’nông vốn là người ven biển di cư lên vùng tây nguyên, do tiếp xúc văn hóa với người Lào (thuần dưỡng voi), và người Ê-đê nên hình thàh nên loại hình văn hóa M’nông độc đáo như ngày nay. Nhà cộng đồng được dựng lên nhờ vào những chất liệu của rừng, dù gió lốc, hay lũ quét cũng không thể làm tổn hại dù không hề có một chiếc đinh, một chút gạch vữa hay sự can thiệp của khoa học. Đây ngôi nhà chung, đẹp, vững chắc và kiên cố nhất boon. Cứ thế, boon này nối liền boon kia, những ngôi nhà trập trùng nhấp nhô trải dài trên những sườn núi như những con thuyền đang trườn mình giữa màu xanh bạt ngàn của rừng núi.

2.2.  KIỂU NHÀ SÀN SINH HOẠT

Mô hình, kiểu dáng của nhà ở được quy định một phần bởi địa bàn cư trú. Người M’nông nói riêng và cư dân tây nguyên nói chung, có truyền thống dựng nhà theo hướng Bắc – Nam để đón gió và tránh nắng nóng. Tuỳ theo vùng và từng nhóm địa phương, họ có thể xây nhà trệt hoặc nhà sàn. Nhóm Mnông Gar, Mnông Preh, Mnông Prâng... thường làm nhà trệt có mái tranh gần sát đất, nền đất là mặt bằng sinh hoạt. Nhóm Mnông Kuênh, Mnông Chil, Mnông Bhiêt... thường làm nhà sàn, không chỉ nhằm phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mà còn giúp phòng tránh những đe dọa của tự nhiên (thú dữ, lũ quét…). Có loại nhà sàn thấp và loại nhà sàn cao. Nhà có sàn thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 0.70 đến1m, được dựng theo tập quán du cư, sử dụng vật liệu không bền vững. Riêng nhóm M’nông R’lâm ở vùng hồ Lắk có kiểu kiến trúc nhà sàn cao giống người Ê - Ðê. Mỗi boon có thể có từ mười đến vài chục nóc nhà. Dù là nhà sàn hay nhà trệt mái vẫn là cỏ tranh; khung và sườn nhà được kết hợp hai loại nguyên liệu là tre nứa và gỗ cây thường là cây sao, xe, cà chít được tạc thô, to đầy vòng tay một người ôm. Các bộ phận được liên kết bằng chạc, ngoãm, dây mây và dây rừng. Ngôi nhà người M'nông thường được làm theo kiểu bốn mái, cửa vào nhà mở ở đầu hiên trái tạo nên sự ấm cúng, kín đáo của ngôi nhà. Trong nhà, hoa văn được trang trí thường mang hình dáng của những dòng sông, con bướm, hòn đá… vì theo quan niệm của họ, con người được sinh ra từ nước, đá và con bướm… Các vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày như rìu, cồng chiêng, ché rượu cần… cũng được chạm trổ những đường nét hoa văn rất đẹp. Bước qua sân rộng lên nhà là cầu thang. Cầu thang của người M’nông được chia làm hai loại: cầu thang đực – dành cho nam giới và cầu thang cái được trang trí đẹp và to hơn để phân biệt – chỉ dùng cho nữ, trong một số trường hợp đặc biệt nếu được sự cho phép của chủ nhà thì nam giới mới được sử dụng cầu thang này. Đây là minh chứng cho chế độ mẫu quyền trong đời sống cộng đồng người M’nông. Trong nhà, các kho lúa đều trổ cửa phía ngoài, mỗi kho lúa có thang riêng để bắt lên khi cần lấy lúa. Hai bên cửa kho lúa có đặt hai bồ lúa to đựng lúa giống và đựng lúa tiết kiệm, khi lúa trong kho đã hết mới lấy lúa trong bồ ăn. Nhà của người Ê-Đê dài cả một hơi ngựa chạy, dài bằng một hồi chiêng thì nhà của người M’nông chỉ có chiều dài khoảng 30m đến 50m, được chia thành các gian, đủ cho ba gia đình nhỏ có thể sinh hoạt khá thoải mái. Để làm được một nhà dài phải tốn hàng trăm cây gỗ lớn. Đó là những ngôi nhà của ba thế hệ cùng sinh sống chỉ bằng những vách nứa ngăn là đã có một không gian riêng cho một gia khẩu. Cũng vì thế mà những ngôi nhà này thường được gọi là nhà sàn hơn là nhà dài. Đây là kiểu nhà tồn tại khá phổ biến trên thế giới từ xã hội nguyên thủy thời kì sống kiểu quần cư cộng đồng thị tộc. Ðiểm chung trong phân chia chức năng không gian ngôi nhà ở chỗ đó là ngôi nhà đa chức năng, sử dụng không gian sinh hoạt nhiều tầng. Phía trên là nơi sinh hoạt hàng ngày, nơi ăn, ngủ, vui chơi, nơi những người già dạy chop con cháu truyền thống, cách trồng hạt lúa, hạt đậu, bắt con thú hoang,… phía dưới sàn, là nơi để củi, để nông cụ, chăn nuôi,…. Điều đặc biệt trong nhà dài là bếp lửa. Bếp lửa được xem là vật linh thiêng, là trái tim của ngôi nhà. Hàng đêm, bên bếp lửa bập bùng con người tây nguyên chìm mình vào những câu hát sử thi, họ kể, họ hát, họ nói với nhau về truyền thống, về dân tộc mình. Bếp lửa như sợi dây nối kết những con người lại với nhau. Như thế, nhà rông dài là nét văn hóa riêng của đồng bào tây nguyên, nó không chỉ là chiếc nôi nuôi dưỡng mỗi cá nhân mà còn là một tiểu cộng đồng trong đại cộng đồng buôn làng.

2.3. NHÀ MỒ - NGÔI NHÀ CỦA NỬA CỘNG ĐỒNG BÊN KIA

Thân xác phải chết nhưng linh hồn vẫn sống. Đây không chỉ là quan niệm của đồng bào tây nguyên mà còn là sự hiển nhiên trong quan niệm của mọi nền văn hóa. Người Ai Cập ướp xác, vì họ tin cái chết chỉ là một hành trình du lãng của linh hồn, sẽ đến một thời điểm linh hồn trở lại với thân thể của mình. Còn đối với đồng bào M’nông, cái chết là khoảnh khắc của sự tách rời bản thể và hồn sẽ tìm được một sự hòa hợp mới. Nhà mồ là nơi lưu giữ thể xác và trú ngụ của các linh hồn. Đây là minh chứng cho nửa cộng đồng thứ hai tồn tại trong đời sống của đồng bào. Khi có người chết, mọi công việc được gác lại để lo mai táng, ma chay. Thi hài được quàng tại nhà khoảng hai ngày đối với người chết già, chết vì bệnh tật. Những cái chết đột ngột như: chết đuối, ngã cây, rắn cắn, hổ vồ và chết do chiến tranh, đâm chém… thi hài không được đem vào nhà mà phải mai táng tức khắc một cách thầm lặng. Thổ táng là hình thức duy nhất trong việc tang ma, không có tập quán cải táng. Mọi người chết đều được chia tài sản để mang về lập nghiệp ở thế giới của ông bà gọi là Phan.

Nhà mồ được làm theo hướng Đông – Tây, nhằm tận dụng gió và nắng lồng lộng xua tan mùi hôi hám. Kiến trúc nhà mồ của người M’nông mang tính nghệ thuật hình tượng, các hoa văn được chạm trổ công phu, đó là những khối hình nhìn thoáng qua như búp sen, hay các con vật như rùa, voi, sóc… với hai màu đặc trưng đen và đỏ. Tại thời điểm hiện tại, trên địa bàn huyện Lắk đã không còn tồn tại hình ảnh nhà mồ. Theo tìm hiểu chúng tôi được biết, trước đây, người M’nông R’lâm có nhà mồ. Nhà mồ có hình dáng như cái nón úp ngược, cũng có một số tượng nhưng chỉ được gọt đẽo thô sơ, có cây nêu như sợi dây nối giữa trời đất, để người chết theo đó mà lên trời, về với nửa cộng đồng bên kia của mình. Đặc biêt, nhà mồ của đồng bào không rào khuôn khổ như người Ê-Đê. Do sự biến đổi của thời gian, những ngôi nhà mồ đã chỉ còn trong kí ức của những người già nơi đây.

Nhà mồ là biểu tượng đẹp của văn hóa tâm linh. Không chỉ là đặc trưng văn hóa vật thể mà còn thể hiện được lối sống nhân văn sâu sắc. Ngoài ra, hiện thân của nhà mồ chính là hiện thân của đạo hiếu tồn tại trong ý thức của người còn sống.

3. CHIẾC BÌNH CHỨA ĐỰNG VĂN HÓA TÂY NGUYÊN

Trong chủ nghĩa duy vật ta đã biết “vật chất quyết định ý thức”, ông bà ta cũng đúc kết một cách thâm thúy “rau nào sâu ấy”, “nồi nào vung ấy”, “xác nào hồn nấy”… . Như thế, những yếu tố thuộc về văn hóa vật chất đều chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần riêng. Chúng tôi vẫn gọi chúng là những chiếc bình đựng văn hóa. Mỗi nền văn hóa có một chiếc bình mang diện mạo của riêng mình. Chỉ mảnh đất tây nguyên mới có cái hồn của văn hóa rừng đầy những nét chạm khắc thô sơ nhưng rất quyến rũ. Tỷ như, chỉ chiếc ché tây nguyên tạo hương vị đặc biệt của rượu cần, vị ngọt lẫn trong chất men đê mê làm say lòng bao con người, bao thế hệ. Những ngôi nhà của người tây nguyên cũng tồn tại một linh hồn văn hóa như thế. Đó chính là quan niệm vạn vật hữu linh nơi mảnh đất này. Nhà Rông không chỉ như những cánh buồm no gió đầy thách thức và kiêu ngạo giữa đất trời, đây còn là nơi gắn kết những con người lại với nhau tạo nên khối sức mạnh lớn lao. Từ đó, con người có thể chống chọi với tự nhiên để trường tồn. Nhà ở là nơi cư ngụ, là cái nôi nuôi dưỡng của mỗi cá nhân.Từ ngôi nhà của nhiều thế hệ ấy, người dân M’nông học những bài học vỡ lòng đầu tiên và đến khi trở về với nửa cộng đồng bên kia họ vẫn trở về với mái nhà ấy của mình với tư cách người bảo hộ cho thế hệ sau. Những ngôi nhà mồ không chỉ là nơi an nghỉ của những người đã khuất, trong quan niệm của đồng bào, đây còn là biểu tượng của sự hiếu nghĩa, một minh chứng cho một nửa thế giới còn lại song hành cũng họ. Trong ngôi nhà, luôn tồn tại các vị thần, thần bếp, thần chiêng, thần nhà, thần đất… như thế, đồng bào không hề tồn tại cô độc một mình giữa núi rừng hoang sơ.

Những ngôi nhà tây nguyên có ba nét độc đáo riêng: Một là, vật liệu là những nguyên liệu có sẵn từ rừng núi, thô sơ nhưng bền và chắc; Hai là, kĩ thuật xây dựng của đồng bào rất tinh tế, khéo léo. Về điểm này, chúng ta có thể tự hào khi so sánh với những công trình kiến trúc như kim tự tháp Ai Cập, tất cả đều được làm thủ công, không hề có sự can thiệp của máy móc, kĩ thuật hiện đại nhưng có thể trường tồn cũng thời gian. Ta còn thấy ở cách trang trí và họa tiết được chạm khắc đẹp, tinh vi và sống động phản ánh năng khiếu thẩm mĩ đặc biệt của đồng bào; Ba là, mỗi yếu tố sau khi được tạo thành đều mang trong mình linh hồn riêng, đó chính là cái tâm của người thợ kiến tạo và của những con người nơi đây. Chính cái thô sơ, sự khéo léo trong nghệ thuật sắp đặt, thổi hồn của con người đã tạo nên sự độc đáo này. Và chúng ta không thể phủ nhận mỗi ngôi nhà thực sự là một chiếc bình chứa đựng thứ văn hóa đặc sản của đại ngàn.

4. ĐỂ NHỮNG NGÔI NHÀ LÀ CON THUYỀN VĂN HÓA ĐẠI NGÀN

Hiện nay, theo xu thế “bê tông hóa, tôn hóa nhà ở” những ngôi nhà truyền thống dần mất đi. Khi đến với boon Jun, boon Lê, thị trấn Liên Sơn, huyện Lắk những ngôi nhà mái tranh, sàn gỗ đã không còn nữa. Có chăng, chỉ vài ba ngôi nhà được phục dựng nhằm phục vụ nhu cầu du lịch nằm khiêm tốn giữa những ngôi nhà sàn cao đẹp với mái tôn, nền lát gạch. Boon cổ M’liêng là một trong những boon còn giữ lại được nhiều nét tiêu biểu của một boon cổ với những ngôi nhà dài cổ và nét sinh hoạt truyền thống của người M’nông R’lâm. Nhưng ta hẳn cũng sẽ thất vọng khi thấy ngôi nhà cộng đồng bằng bê tông kiên cố, đẹp đẽ vừa được xây dựng cách đây vài năm thay cho ngôi nhà Rông mái tranh cao vút. Trong xu thế ấy, liệu rằng giữa màu xanh của rừng có còn những cánh buồm no gió đầy ngạo mạn và thách thức? Đó mới chỉ là sự thay đổi bên ngoài. Khi tiếp xúc với các em nhỏ, tôi hỏi các em về Yang, về truyền thuyết của buôn làng mình mới thực sự đáng buồn khi hiểu rằng Yang đã không còn tồn tại trong tâm hồn của thế hệ trẻ nữa. Như thế, vấn đề được đặt ra cho chúng ta bên cạnh việc phục dựng, bảo tồn cũng cần đến giải pháp hợp lí nhất.

Theo chúng tôi, trước khi tiến hành phục dựng văn hóa chúng ta cần phục dựng môi sinh, nghĩa là phục dựng môi trường sinh sống của cộng đồng. Nếu rừng không còn, văn hóa rừng sẽ không tồn tại. Cấp thiết cần bảo vệ những khu rừng già và vốn động thực vật cũng như hệ sinh thái tự nhiên. Hãy thử đưa ra ví dụ đơn giản nhất, đối với người M’nông R’lâm, voi là một động vật gần gũi và linh thiêng, nếu rừng không còn loài voi cũng sẽ dần mất đi. Con cháu không còn được hiểu thế nào là voi góp sức xây buôn dựng bản hay những nghi lễ cúng voi, mừng tuổi voi… sẽ dần biến mất. Thế hệ sau sẽ chỉ thấy voi trong sở thú, trong hình ảnh mà thôi. Vậy, một góc văn hóa của đồng bào hẳn sẽ bị mai một và mất dần. Khi bảo tồn, ta phải tiến hành song song hai phương án, bảo tồn tĩnh và bảo tồn động. Bảo tồn tĩnh chính là phương án đầu tư tái tạo và khôi phục những yếu tố văn hóa vật chất theo những mẫu chuẩn cổ xưa. Bảo tồn động đòi hỏi chúng ta trả văn hóa về với núi rừng, về đúng với nơi chúng tồn tại, để văn hóa sống trong cộng đồng. Sự tham gia của phương tiện truyền thông là cần thiết nhưng cần tế nhị khi can thiệp vào văn hóa, đặc biệt ở những nền văn hóa sơ khai để tránh sự khô khan, cứng nhắc. Khi thực hiện một lễ hội, những ý niệm tâm linh không thể tồn tại khi máy ảnh cứ chớp liên tục, khi người tham gia phải tạo hình đủ tư thế để đẹp trong từng góc quay. Nghệ thuật không tồn tại ở một bức ảnh đẹp giả tạo, sắp xếp. Bức ảnh chỉ đẹp khi nó là khoảnh khắc thực, tự nhiên ta chớp được. Văn hóa không phải là một vở diễn, đó là điều tự nhiên, tự thân của mỗi dân tộc. Và cần có phương án cho tương lai. Những công trình chúng ta phục dựng sẽ phục vụ cho nhu cầu quảng bá, du lịch hiện tại rồi tương lai sẽ đi về đâu? Không ít những di tích lịch sử được phát hiện sau một thời gian phục vụ tham quan, du lịch đã trở thành bãi rác, thành nơi hoang phế. Điều này đòi hỏi kế hoạch sau phục dựng phải thật chu toàn và tỉ mỉ, bởi, tạo dựng đã khó, việc giữ gìn chúng còn khó hơn. Tôi đã từng nghe nhiều người nói: “kinh doanh văn hóa là kinh doanh có lợi nhất”. Nếu vì lợi nhuận mà tái tạo văn hóa, không khác gì thèm ăn một thức quả chín nên đem ngâm quả non vào hóa chất. Vẫn là mùi vị đó, nhưng hậu quả khôn lường cho cả người làm và người ăn. Tóm lại, điều cần nhất để bảo lưu nét đẹp của văn hóa là cái tâm người làm.


Mục đích cuối cùng chúng ta hướng đến là duy trì bảo lưu nét đẹp của nền văn hóa cổ cho con cháu, cho dân tộc. Hội nhập là xu thế tất yếu, tương lai, nước ta sẽ bước vào ngôi nhà chung của thế giới. Và giữa cộng đồng chung của thế giới, con cháu chúng ta tự hào khi có khuôn mặt văn hóa của riêng mình. Đại ngàn là chiếc nôi văn hóa, nền văn hóa ấy được gìn giữ trong những nếp nhà. Liệu rằng những ngôi nhà – con thuyền ấy, có thể chở theo nền văn hóa độc đáo của dân tộc đến với thế giới hay không? Điều này, đòi hỏi sự nỗ lực của chúng ta ở hiện tại.

Th.S Bùi Quang Định
Nguyễn Thị Lan Anh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét