Thơ thiền
là một nhánh độc đáo của truyền thống thi ca. Xét về phương diện thơ, nó không
thể bằng sáng tác của các nhà thơ bậc nhất. Nhưng xét về phương diện văn hóa,
triết học, thơ Thiền là tiếng thơ độc đáo, giàu tính triết mĩ và chất nhân văn
về con người, cuộc đời… Chính bởi vậy, con người trong thơ Thiền- bên cạnh một
số đặc điểm chung của mẫu hình con người văn học trung đại- còn mang nhiều nét
riêng biệt, đặc trưng cho sự hội ngộ, dung hợp giữa Thiền và thơ của dòng thơ
này. Thơ thiền xuất phát từ Trung Hoa và phát triển mạnh từ thời nhà
Đường. Ở Việt Nam, thơ Thiền phát triển mạnh vào thời Lý Trần. Tác phẩm thơ thiền
thời kì này chiếm số lượng áp đảo đáp ứng với một thời mà Phật giáo được xem là
quốc giáo của dân tộc. Riêng đối với nền văn học của một số nước khác như Ấn Độ,
Triều Tiên, Nhật Bản, dòng thơ này không tồn tại.
1. Khái niệm thơ Thiền
Trong từ điển Nho, Phật, Đạo,
NXB Văn học Hà Nội (2001) cho rằng, thơ Thiền lúc đầu là những bài kệ. Đây là
thể văn Phật giáo, còn gọi là “tụng”, nói chung là do bốn câu tổ thành. Có các
loại, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 32 chữ. Là văn vần, loại thể tài giống như thơ .
Nhưng từ đời Đường, kệ được “thơ hoá”. Nhà thơ nói bằng hình ảnh, kêu gọi chứ
không dùng khái niệm khô khan. Do vậy, thơ kệ làm thành một bộ phận của thơ Thiền,
tức dòng thơ thể hiện cảm xúc mang ý vị Thiền học nhưng vẫn đậm đà chất thơ. Kệ
thường được viết trong những hoàn cảnh: lúc nhà thơ sắp viên tịch, khi ngộ đạo,
khi trả lời đệ tử về giáo lí đạo Phật… Các bài kệ hầu hết không có nhan đề,
nhan đề là do người đời sau đặt ra.
Nguyễn Phạm Hùng trong luận án
PTS “Vận dụng quan điểm thể loại
vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý – Trần” đã tổng kết quan niệm về thơ Thiền như
sau: “Thơ Thiền là các bài kệ, là thơ bao
gồm cả kệ và thơ, nêu lên một triết lý, một quan niệm Thiền hay một bài học Thiền
nào đó, hoặc vừa ảnh hưởng Thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế.
Thơ Thiền là thơ cuảt các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am
hiểu và yêu thích triết lý Phật giáo, bày tỏ trực tiếp hay gián tiếp triết lý,
cảm xúc hay tâm lý Thiền”.
Như vậy, khái niệm thơ Thiền
mang một nghĩa tương đối rộng, có tính chất mở. Ta có thể thấy đó là những bài
kệ trong Thiền uyển tập anh,
khoá hư lục, tuệ trung thượng sĩ ngũ lục hoặc những bài thơ mang cảm hứng Thiền.
Trong văn học đời Trần, số thơ này xuất hiện ở một tần số cao hơn văn học Phật
giáo thời Lý
2. Đặc điểm của thơ thiền
2.1.Đặc điểm về nội dung
Một là, truyền được cách cảm nhận của thế giới
về thiền học, sự nhận thức về huyễn ảo, chân như.
Hai là, bộc lộ được vẻ đẹp của thế giới và tâm hồn con người
Ba là, thơ thiền là thơ của tầng lớp tăng lữ cấp
cao, tầng lớp tri thức đặc biệt, không giống với tình cảm Phật giáo dân gian.
Chính bởi tính chất này mà thơ thiền có tính bác học, trí thức. Người làm thơ đa
phần là nhà sư yêu nước, tướng lĩnh, nhà ngoại giao nổi tiếng nhưng trong tâm hồn
họ tôn thờ Phật giáo theo thiền tông.
2.2. Đặc điểm hình thức nghệ thuật thơ Thiền
Thơ Thiền trong văn học trung đại không những mang đặc điểm lớn
về mặt nội dung mà ở hình thức nghệ thuật cũng có nhữn đặc điểm khiến chúng ta
quan tâm chú ý.
Về ngôn ngữ: Trong một số bài thơ Thiền thường xuất hiện một
số từ ngữ nhà Phật như: sắc,
không, chân như, hữ huyền, duyên, nghiệp, tứ diệu đế… những điển tích, điển cố phật giáo.
Thơ thiền thường hay xuất hiện hình ảnh núi.
Về hình tượng nghệ thuật: Thơ thiền thường xuất hiện những
hình ảnh ẩn dụ, so sánh, biểu tượng để nói về giáo lý đạo Phật như: hoa sen,
hoa mai, đình núi, dòng sông, sông nước… Theo
quan niệm “sắc”, “không” của Phật giáo thì sự tồn
tại của con người cũng như vạn vật là “sắc” (hiện hữu) mà cũng là “không”
(vô hình), sắc mà không,
không mà sắc. Thân như bóng
chớp có rồi không nhưng chẳng phải là mất mà là chuyển sang trạng thái trở về với
bản thể.
Về
kết cấu thơ, bài thơ: Thơ thiền thường sử dụng kiểu câu nghi vấn, phi cảm xúc
thong thường. Nó chỉ là một tượng trưng của Phật pháp. Nếu như không có một chiếc
chìa khoá của giác ngộ, chân như thì không có gì giải mã được. Bởi mối liên hệ
của những câu thơ, nhưũng hình ảnh thơ được xác lập và tưởng tượng từ cảm hứng
riêng, cảm hứng Thiền, không hẳn giống mạch thơ thông thường của các nhà thi
sĩ.
Tuy vậy sự gắn bó giữa hai mặt lí trí và tình cảm trong thơ
không phải lúc nào cũng hoàn toàn thống nhất. Những rung động trực cảm đã tạo
nên những hình tượng nghệ thuật bộc lộ phần nào tâm hồn nhà thơ nhiều khi mâu
thuẫn hay ít ra là xa lạ với chính cái lí trí mà nhà thơ hướng tới
II. Con người trong thơ
thiền
Văn học
Phật giáo là một kho tàng lớn lao có lịch sử từ hàng nghìn năm, nếu kể cả các
kinh điển, kinh luân nói chung. Con người trong văn học Phật giáo được mô tả và
khơi gợi ở nhiều góc độ phong phú, bao gồm chính hình ảnh Đức Phật với những tiền
thân, các vị Phật, các kiếp người, với nhiều trạng thái và cơ duyên Phật pháp khác
nhau.
2.1 Con người tự do
Trước hết, đó là những con người với tinh
thần “phá chấp” triệt để. Tức là, con người tự giải phóng cá tính của bản thân
ra khỏi các giáo điều cứng nhắc, ràng buộc mà thiền học gọi là “chấp”. Đây thực
chất là sự phá bỏ những trói buộc của con đường mòn tư duy, giải phóng con người
đến một khoảng không bao la của tự do trí tuệ. Chính ở tinh thần nhân văn cao đẹp
này mà thơ thiền Lý- Trần đã tạo nên những con người phi thường về nhân cách và
ý nghĩ: vừa làm vua, vừa làm tướng đuổi giặc lại vừa làm thiền sư, ẩn sĩ, nhà
thơ; làm đến vương hầu mà coi công danh như phù vân, lìa bỏ ngai vàng như trút
bỏ chiếc giày rách…
Đặc biệt, trong tinh thần “phá chấp” triệt
để ấy, con người cảnh giác cả với giáo lí, kinh điển của Phật, của Tổ, tự tìm lấy
cách sống, hành động phù hợp với mình. Huệ Năng đã không ngần ngại giễu những
ai vọng ngoại sang Tây Trúc: “Nếu ai cũng sang đấy cả thì chỗ đâu mà ở?”. Hay
Trần Tung, trong bài (Ngẫu tác) đã viết:
“ Giữa nhà không khói chỉ ngồi yên
Nhàn lắm Côn Lôn sợi khói lên
Lúc mệt mỏi thời tâm tự tắt
Cần
chi niệm Phật với cầu thiền”
Con người tự do trong thơ thiền khao khát
được tiêu dao tự tại, giải thoát khỏi mọi hữu hạn trần tục để đạt đến được cái
tuyệt đối của thế giới. Văn học thiền đời Trần- do thế- hay nói nhiều đến sự
hòa đồng với tự nhiên, trần thế. Con người về gần với đời sống tự nhiên đầy
sinh thú, đói thì ăn, buồn ngủ thì nằm ngủ, tùy duyên, tùy ngộ, thuận ứng nhẹ
nhàng. Tựa như cái cảnh “Thú quê nào chán suốt ngày vui”, “Ngư ông say ngủ
không ai gọi” trong thơ Không Lộ thiền sư; hay tâm thế “hồn nhiên người với hoa
vô biệt” trong “Hoa cúc” của Huyền Quang.
Cần thấy rằng tự do ở đây là tự do hướng nội,
nghĩa là con người tự do vứt bỏ tất cả để tạo lập một thế giới riêng thanh cao
cho riêng mình. Nó thuận theo lí tưởng tha thiết của Thiền tông là “nở đóa sen
vàng trong lò lửa”. Theo đó, đời đối với họ chỉ là cái lò lửa thiêu đốt con người,
là địa ngục trần gian của con người. Nếu giác ngộ thì sẽ là đóa hoa tươi trong
cái lò ấy, và là đóa hoa vàng ròng, lửa không làm hủy hoại được. Đó là khi họ
đã trở thành con người siêu nghiệm, đứng ngoài sinh, diệt, đau khổ.
2.2 Con người vô ngã
Con người vô ngã là con người “quên mình,
hay đúng hơn là cả ta và vật đều quên”, để có được những giây phút sống trọn vẹn,
hòa làm một cùng vũ trụ vô biên, không còn phân biệt được đó là mình hay là
khách thể; nghĩa là vượt ra khỏi ranh giới của sự hữu hạn để đạt tới cảnh giới
tuyệt đối- niết bàn ngay nơi trần thế.
Con người vô ngã đề cao “sự quên”. Quan trọng
nhất là quên bản thân mình, như nhà thơ Huyền Quang đã nói: “Vong thân vong thế
dĩ đô vong”. Tiếp đó là quên ngày, quên tháng, chỉ nhìn thiên nhiên biến đổi
trước mắt mà biết thời tiết. Để làm được điều này, con người hóa thân vào vũ trụ,
vào thiên nhiên, cả người, cả vật thành cái “một” của vũ trụ “nhất nhật tùng
chi võng nguyệt minh”.
Nói đến vô ngã, lâu nay nhiều khi người ta
vẫn ngộ nhận về nội hàm khái niệm này. Tinh thần “vô ngã” không mang ý nghĩa
phi nhân bản với cách hiểu xóa bỏ con người cá nhân mà chính là yêu cầu giải
phóng tuyệt đối với con người. Theo đó, con người được giải phóng khỏi mọi ràng
buộc của tự nhiên, xã hội và của cả chính bản thân mình, đạt đến sự tự do tuyệt
đối. Đây cũng chính là một khía cạnh tinh thần “phá chấp” ở cấp độ cao- phá bỏ
cái “chấp” khó phá bỏ nhất là “chấp ngã”- khư khư bám vào cái tôi nghe, cái tôi
nghĩ, cái tôi cảm…Con người vô ngã vượt lên mọi sự tranh chấp tốt- xấu, phải-
trái, lành- dữ.. để đạt đến cái tâm bình đẳng và cái nhìn độ lượng đối với vạn
vật.
2.3 Con người vô úy
“Vô úy” nghĩa là không sợ hãi. Con người
vô úy trong thơ thiền là con người siêu nghiệm, đứng ngoài sinh diệt, đau khổ.
Trước sự tàn phai, biến ảo của cuộc đời, con người vẫn kiên nghị “Mặc cuộc thịnh
suy đừng sợ hãi/ Kia kìa ngọn cỏ gió sương đông”. Hành động tiêu biểu của con
người vô úy là họ coi biến đổi như không, không sợ hãi, không kinh ngạc, đặc biệt
điềm nhiên, bình thản trước cái chết của chúng sinh và của cả chính mình. Đó là
những con người “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Tựa như bài kệ của Mãn Giác thiền
sư:
“Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân
tới, trăm hoa cười
Trước
mắt việc đi mãi
Trên
đầu già đến rồi
Đừng tưởng xuân tàn, hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”
2.4 Con người vô ngôn
Xuất phát từ quan niệm ngôn ngữ hữu hạn
không thể diễn đạt được chân lí vô cùng, thiền học đề cao tuyệt đối phương châm
“dĩ tâm truyền tâm”. Con người vô ngôn trong thơ thiền mặc cho giây phút đại ngộ
đến một cách tự nhiên, vô ý:
“ Cá trung khúc phá vô nhân hội
Duy
hữu tùng phong họa thử âm”
( Tạm dịch: Khúc nhạc trong lòng ta đã hình thành mà không ai
biết.Chỉ có gió trên cây thông là họa được âm thanh ấy)
(
Tự thuật- Trần Thánh Tông)
Chính trong giây phút lặng yên đạt đến sự
hòa điệu với cái “đại ngã” ấy, con người mang sức sống của vũ trụ vượt qua
không gian và thời gian hữu hạn, trở thành cái tuyệt đối đầy quyền năng và tự
do.
Chính mĩ học “vô ngôn” này và sự xuất hiện
con người vô ngôn trong thơ mà thơ thiền thường yên tĩnh và hay thể hiện một
tình yêu sự yên tĩnh, sự sáng suốt, sự vững vàng. Từ trong yên tĩnh, con người
cảm nhận vẻ đẹp cuộc đời qua trực giác vô tư. Đúng như nhà mĩ học Trung Quốc
Tôn Bạch Hoa đã nhận xét: “Thiền là cái cực tĩnh trong cái cực động, cũng là
cái cực động trong cái tĩnh động tĩnh
không chia hai, tìm thẳng tới cội nguồn sự sống”.
III. Kết luận
Có thể nói, con người trong thơ thiền mang
những nét riêng biệt, không dễ nhầm lẫn với con người trong các dòng thơ khác.
Xưa nay, con người trong thơ thiền vẫn là một bí ẩn. Cách phân chia như trên chỉ
mang tính tương đối. Xét về sâu xa, 4 đặc điểm về con người trong thơ thiền đã
nói trên, bao gồm: con người tự do, con người vô ngã, con người vô úy và con
người vô ngôn không tách biệt nhau. Sự phá chấp hay tinh thần vô ngã, vô úy, vô
ngôn… đều nhằm đạt đến mục đích mang lại sự tự do tuyệt đối cho con người, đưa
con người đạt đến tầm con người- vũ trụ: tức là con người hòa điệu với vũ trụ,
mang tất cả sức mạnh, cái tự do và cái tuyệt đối của vũ trụ. Ý nghĩa nhân văn
cao đẹp của hình tượng con người trong thơ thiền là chính ở đó.
Nhóm học viên
Nguyễn Thị Mai - Nguyễn Thị Thùy Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét