Tranh của thầy Huỳnh Chương Hưng |
I. Quan niệm Thời trung đại về mặt lịch sử
1. Khái
niệm
“Thời
trung đại” là khái niệm mà các nhà nhân đạo chủ nghĩa châu Âu thế kỉ XV dùng để
chỉ thời đại lịch sử ở giữa thời cổ đại, tính từ khi chế độ đế quốc Tây La Mã sụp
đổ vào thế kỉ thứ V cho đến thời đại Phục hưng vào thế kỉ XV. Đó là thời kỳ mà
sử gia phương Tây gọi là “đêm trường trung cổ” với sự ngự trị tuyệt đối của thần quyền, quân
quyền. Đó là khi tòa án giáo hội đưa lên
giàn thiêu bất cứ ai nghi ngờ chân lí, giáo lí nhà thờ, có tư tưởng tự do hoặc
tìm tòi khoa học. Thoạt đầu người ta dùng cụm từ “thời trung đại” với ý khinh
miệt, để chỉ một thời tăm tối, không có ánh sáng của lí tính và khoa học, đầy
chết chóc, hận thù, định kiến, để sau đó là thời Phục hưng, làm sống lại các
giá trị nhân văn thời cổ đại, giải phóng cá tính, phát triển tự do và sáng tạo
của con người. Nhưng dần dần sử học đã phát hiện ý nghĩa khoa học đích thực của
khái niệm này, xua tan những xuyên tạc định kiến về nó, trả lại cho nó nội dung
lịch sử, văn hóa, văn học mang nội dung nhân văn. Thời trung đại cũng như các
thời kì khác, đều lí thú và có ý nghĩa mà thời khác không thể thay thế được.
1.1. Về
mặt thời đại
Thời
trung đại là thời kỳ sau khi tan rã chế độ chiếm hữu nô lệ cổ đại cùng với các
đế chế hùng mạnh cổ đại. các đế quốc bị chia nhỏ ra, bị phong kiến hóa.Các sử gia Mác-xít cho rằng lịch sử
trung đại về cơ bản là lịch sử chế độ phong kiến, một hình thái kinh tế xã hội
tiếp theo chế độ chiếm hữu nô lệ mà niên đại đánh dấu sự kết thúc của chế độ
chiếm hữu nô lệ ở Tây Âu là năm 476, năm đế quốc Tây Rôma diệt vong. Còn sự kiện
đánh dấu sự kết thúc thời trung đại và mở đẩu cho thời kì cận đại là cuộc cách
mạng tư sản Anh bắt đầu bùng nổ năm 1642.
1.2. Về mặt văn hóa
Thời trung đại không giản đơn là một bước lùi trong tiến trình
văn minh mà là một bước tiến. Đó là thời đại văn hóa lớn trong lịch sử nhân loại,
thời đại ra đời của những quốc gia châu Âu, những nhà nước hiện đại hình thành,
những ngôn ngữ dân tộc đa dạng cũng có dịp phát triển và hiện vẫn đang sử dụng.
Đó cũng là thời đại hình thành các giá trị truyền thống có ảnh hưởng đến hôm
nay. Đối với các quốc gia phương Đông như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản… thì
thời trung đại là thời hình thành toàn bộ di sản thành văn của mình.
1.3. Về
mặt thời gian
Nhìn
chung, về mặt thời gian, các sử gia chia thời trung đại châu Âu làm ba giai đoạn.
Giai đoạn sơ kì từ thế kỉ V đến thế kỉ XI, giai đoạn trung kì khi chế độ phong
kiến phương Tây đạt đến mức toàn thịnh, từ đầu thế kỉ XII đến thế kỉ XV; giai
đoạn mạt kỳ khi chế độ phong kiến suy tàn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVII.
Độ
dài cụ thể của thời trung đại trong từng khu vực, từng quốc gia có xê xích đáng
kể. Với
những đặc điểm như trên, khái niệm thời trung đại có thể được vận dụng vào lịch
sử phương Đông trong tương quan với các yếu tố đặc thù về khu vực và dân tộc.Theo
ý kiến của N. Côn rát, B.L Riptin…thời trung đại của Trung Quốc bắt đầu từ Ngụy
Tần Nam Bắc triều vào thế kỉ IV TCN. Nhìn
chung, vào thế kỉ III, một số nước Trung Á cũng bước vào thời trung đại.
Đối
với Việt Nam, nếu theo truyền thuyết đã có thời đại Hùng Vương phát triển rực rỡ,
thì thời đại đó đã chấm dứt bởi sự áp đặt ách thống trị quận huyện từ đời Hán
vào đầu Công nguyên, và từ đời Hán đến đời Đường, đất nước đắm chìm trong 10 thế
kỉ Bắc thuộc theo mô hình phong kiến Trung Hoa. Sau đại thắng Bạch Đằng vào thế kỉ X, xây dựng
nhà nước Việt Nam độc lập đến thế kỉ XIV, XV, hình thành tiếng Việt mà cho đến
nay chúng ta vẫn sử dụng và phát triển, cũng như hình thành nhiều truyền thống
quý báu khác cho đến khi chịu sự xâm nhập của tư bản phương Tây và ách đô hộ của
thực dân Pháp, thì có thể nói thời kì lịch sử từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX
mang đầy đủ các đặc điểm quan trọng của khái niệm trung đại – thời kì hình
thành quốc gia, nhà nước, hình thành tiếng nói hiện đại, chữ viết dân tộc và
các truyền thống văn học, văn hóa khác. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng thời
kì phong kiến ở Việt Nam chấm dứt năm 1945 cùng với sự chấm dứt hoàn toàn của một
thời đại hơn mười thế kỉ.
Thời
trung đại Việt Nam không phải là “đêm
trường trung cổ” như quan niệm của một số sử gia châu Âu, mà là thời đại phát
triển rực rỡ của dân tộc. Đây là thời kì mà hầu hết các truyền thống quý báu của
dân tộc đều hình thành, nhân cách và tâm hồn Việt Nam được khẳng định. Không thể
hiểu được văn hóa, văn học và con người Việt Nam hiện đại mà không nghiên cứu
kĩ lưỡng thời kì văn học này.
2. “
Thời cận đại” – thời kỳ chuyển hóa từ trung đại sang hiện đại
Thời
trung đại chuyển sang thời cận đại bằng hàng loạt sự kiện văn hóa, khoa học. Các
phát kiến địa lý làm thay đổi quan niệm về thế giới. Thế giới rời rạc, phân tán
trước đó được nối liền. Những phát kiến lịch sử làm sống lại churnghiax nhân
văn cổ điển, ý thức tôn giáo lung lay, ý thức cá nhân trỗi dậy. Người phương
Đông nhận biết được thế giới chủ yếu do tư bản phương Tây tuyền đạo và giao
thương.
Ở
Trung Quốc, thời cận đại được đánh dấu rõ rệt bằng chiến tranh nha phiến 1840. Ở
Việt Nam, nó đánh dấu bằng sự xâm lược của thực dân Pháp năm 1858. Ở châu Âu,
có khi người ta tính từ thế kỉ XVI- XVII, là giai đoạn mạt kỳ thời trung đại. Tuy nhiên, xét sâu hơn vào quá trình phát triển
kinh tế thì thời cận đại có dấu hiệu sớm hơn ở mỗi quốc gia, khu vực, và nó kéo
dài đến đâu thì vẫn còn nhiều ý kến chưa thống nhất.
Tuy
nhiên, thời kỳ cận đại giữ vai trò quan trọng trong quá trình biến chuyển của lịch
sử , nó đánh dấu quá trình quá độ, chuyển hóa từ trung đại sang hiện đại trên cả
lĩnh vực lịnh sử lẫn văn học.
I. Quan niệm thời trung đại về mặt văn học
1. Khái
niệm “văn học trung đại”
Một
trong những lĩnh cần nghiên cứu về thời trung đại là lĩnh vực văn học.
Văn học trung đại là nền văn học tồn tại trong lòng
xã hội trung đại, là sản phẩm của hình thái xã hội phong kiến, mang những nét đặc
trưng của thế giới quan, quan niệm thẩm mĩ phong kiến.
Ở Việt Nam, nếu xét riêng về hệ thống văn học thì
có thể xem văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX thuộc phạm trù trung đại. Mặc
dù đến cuối thế kỉ XIX có những hiện tượng văn học quốc ngữ xuất hiện, nhưng về
cơ bản, văn học Việt Nam vẫn mang tính chất trung đại.
Việc vận dụng phạm trù trung đại – một phạm trù của
lịch sử phương Tây vào lịch sử phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn
còn gặp nhiều khó khăn và ý kiến bất đồng. Việc vận dụng phạm trù “thời trung đại”
sẽ đem đến một kiểu phân kỳ mới và nhận thức mới trong nghiên cứu văn học Việt
Nam.
2. Vấn đề phân kỳ văn học trung đại
Cách phân kỳ văn học Việt nam đầu tiên tìm thấy
trong Việt âm thi tập của Phan Phu Tiên (thế kỷ XV), trong đó văn học được xếp
theo triều đại Trần, Lê. Các tác giả sách giáo khoa về lịch sử văn học Việt Nam
năm 40- 50 cũng phân kỳ theo triều đại.
Từ các tập văn học sử sau năm 1957 các tác giả phân
kỳ theo thế kỷ trên cơ sở phân tích quá
trình phát triển từ thịnh đến suy của chế độ phong kiến Việt Nam, và gần đây
thì đã chú ý phân kỳ theo loại hình văn học – trung đại, hiện đại. Đó là một bước
tiến quan trọng trong việc nhận thức loại hình văn học.
Các tác giả Hợp tuyển thơ văn Việt Namchia văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XVII là một giai
đoạn lớn, từ thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX là một giai đoạn lớn. Cách chia
này khá phù hợp với tiến trình tự ý thức của con người trong văn học.
Nhìn chung, vấn đề phân kỳ văn học nói chung và văn
học trung đại nói riêng vẫn đang được quan tâm và có ý nghĩa trong việc tìm hiểu
quy luật chung của từng thời kỳ và toàn bộ nền văn học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Nhiều tác giả
(2010), Về vấn đề cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục.
Học viên
Lê Thị Kim Cương
Lê Tấn Cường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét