Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

SỰ DUNG HỢP GIỮA CHẤT SỬ THI VÀ CHẤT TIỂU THUYẾT TRONG "MỘT CHUYỆN CHÉP Ở BỆNH VIỆN" CỦA ANH ĐỨC (Lê Kim Tám)



1. Thể loại tiểu thuyết sử thi ( Roman - épopée ) hình thành ở Nga vào thế kỷ XIX và sang thế kỷ XX thì phổ biến rộng rãi trong các nước XHCN. Thể loại này mang trong mình một cấu trúc rất phức tạp, bởi có sự kết hợp hai tính chất trái ngược nhau như lửa với nước, đó là "chất sử thi" và "chất tiểu thuyết". Trong lịch sử văn học thế giới, "chất tiểu thuyết" từng đấu tranh để loại bỏ "chất sử thi" khỏi hình thức tự sự để từng bước mở đường cho sự thống lĩnh của tiểu thuyết. Đến đầu thế kỉ XIX, sau khi thắng lợi thì "chất tiểu thuyết" quay lại bắt tay "chất sử thi" để tạo ra thể loại mới "tiểu thuyết-sử thi". Người ta đã chứng kiến sự hình thành và phát triển của tiểu thuyết trên cơ sở phá bỏ phong cách cao cả và tính khuôn mẫu của sử thi bằng tiếng cười carnaval. Nhưng sự dung hòa trở lại hai tính chất này đã tạo nên "bi kịch thể loại". Trong đời sống văn học Việt Nam thời chiến tranh, diễn ra nhiều vụ phê bình quy chụp, uốn nắn... làm cho nhiều tác phẩm bị thăng trầm cũng bắt đầu tư việc xử lý chưa hợp thời mối tương quan giữa chất sử thi và chất tiểu thuyết của nhà văn. Nhà văn trẻ Anh Đức là một trong số những gương mặt tiêu biểu của bộ phận văn học miền nam Việt Nam đã từng thành công với các tác phẩm mà vấn đề xử lí mối quan hệ giữa "chất tiểu thuyết" và "chất sử thi" một cách hiệu quả trong các tác phẩm của mình. Tiểu thuyết Một chuyện chép ở bệnh viện, sáng tác 1957 là một trong số những tác phẩm như vậy của Anh Đức.

2. Tiểu thuyết Một chuyện chép ở bệnh viện kể lại câu chuyện tác giả quen chị Tư Hậu trong hoàn cảnh hai người cùng nằm viện. Chị Tư Hậu bị lao hạch cấp tính. Đó là một người phụ nữ còn trẻ, giàu nghị lực. Chị đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời mình.

Là một cô gái mồ côi nghèo khổ, lớn lên, chị Tư Hậu lấy anh Tư Khoa và về Bãi Sao, thuộc tỉnh Châu Thành, quê của anh Khoa, để sống. Chị bị tên Tôma, đồn trưởng đồn Hiệp Hưng làm nhục trong một trận càn, sau ngày chị sinh đứa con gái chưa được bao lâu. Thương con, thương chồng, thương cha chồng, chị cắn răng chịu đựng, tiếp tục sống nuôi con, nuôi cha. Tư Khoa về thăm nhà an ủi, khuyến khích và tỏ tình nghĩa đằm thắm với vợ. Tin dữ đến với chị khi chồng hi sinh khiến chị bàng hoàng tưởng như không sống nổi. Chị Ba Dương, bí thư phụ nữ huyện, an ủi, từng bước dìu dắt chị trên đường công tác, đã giúp cho Tư Hậu hiểu rõ ý nghĩa cao đẹp về sự hi sinh của anh Khoa. Chị cũng đã chỉ cho Tư Hậu con đường phải đi tới trong những ngày này để trả thù cho chồng. Cha chồng bị giặc sát hại. Đau thương chồng chất, nhưng chị không gục ngã. Chị được kết nạp Đảng ngay trong một đợt chống càn ác liệt. Bọn giặc, do tên phó đồn trưởng Tư Bửu bày mưu, đã bắt hai con của chị là Ngọc Thủy và thằng Nhã, để buộc chị đầu hàng. Đau khổ khi thấy con bị hành hạ, đầy đoạ, chị đã sai lầm viết thư cho giặc dù khẳng định mình sẽ không ra hàng và đề nghị bọn giặc tha, giết tùy chúng, chứ đừng đánh đập chúng nó tội nghiệp. Chị Ba Dương đã kịp thời vạch rõ tác hại, Tư Hậu rất hối hận. Vừa lúc ấy, huyện đã bố trí cứu hai cháu đưa về vùng du kích, và mẹ con lại được sum họp.

Hòa bình lập lại, chị Tư Hậu và hai con đi tập kết. Các cháu được đưa sang Liên xô học tập. Chị Tư Hậu trở thành một công nhân dệt giỏi. Bệnh lao hạch bột phát, chị phải vào viện. Được sự chăm sóc nhiệt tình của cả đội ngũ y, bác sĩ bệnh viện, chị đã vượt qua cơn hiểm nghèo. Cuộc sống đầm ấm, yêu thương mà chị đã quên mình vì nó đang chờ đón chị.

Một chuyện chép ở bệnh viện đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ Nam Bộ dịu hiền, giàu lòng yêu thương và đức hi sinh, rất kiên cường trong cuộc sống gia đình và trong công tác cách mạng.

3. Chủ đề của Một chuyện chép ở bệnh viện là quá trình giác ngộ cách mạng của một phụ nữ lao động Nam bộ bình thường. Nhờ sự giáo dục của Đảng, sự giúp đỡ, dìu dắt tận tình của của các đồng chí và nhất là sự phấn đấu mãnh liệt của bản thân chị Tư Hậu nên mặc dầu qua nhiều khó khăn, cuối cùng chị cũng tìm thấy chân lí. Bước đầu đến với cách mạng của chị Tư Hậu quả là có nhiều khó khăn. Đây không phải là những khó khăn khách quan mà chủ yếu là những khó khăn chủ quan, do trình độ nhận thức chính trị còn non nớt của chị gây ra. Hễ nghĩ đến "nỗi cay đắng thân thể bị ô nhục, cái đau đớn chồng chết", chị rất muốn nhận công tác mà chị Ba Dương giao cho. Nhưng nỗi băn khoăn, lo lắng trước khi nhận làm một cong việc mới lạ cứ xâm chiếm lấy chị, làm chị ngần ngại, do dự. Sau nhiều đêm uy nghĩ, chị dần dần hiểu, thêm vào đó, lời chồng dặn văng vẳng bên tai chị: "Cái nghề của Tư có thể giúp đỡ cho bà con, có thể làm được cong tác, nếu các đồng chí trên đó đặt vấn đề đỡ đẻ kết hợp với công tác ngụy vận thì Tư cứ nhận". Chị bắt đầu dùng nghề đỡ đẻ của mình đi sâu vào quần chúng, giác ngộ họ, gây cơ sở cho kháng chiến, đồng thời làm công tác địch ngụy vận.

Một chuyện chép ở bệnh viện có một sức truyền cảm mạnh mẽ, đi thẳng vào tình cảm của người đọc, chính là Bùi Đức Ái đã xây dựng thành công nhân vật chị Tư Hậu từ khía cạnh đời thường một cách chân thật. Nhà văn đã đi sâu vào tâm lí nhân vật, miêu tả những đấu tranh, dằn vặt trong tâm hồn com người. Nỗi căm hờn, tủi nhục xen lẫn xấu hổ, lo sợ của người dàn bà bị giặc hiếp; giằng co giữa tình yêu mới chớm nở với lòng thương nhớ chồng đã chết của một người đàn bà góa; suy nghĩ giữa hai còn đường nhận công tác hay không của một người phụ nữ bước đầu giác ngộ; đấu tranh giữa tinh thần trách nhiệm của người cán bộ và lòng thương con của người mẹ; để công tác lên trên hay để tình thương con lên trên
Đề tài của sử thi là lịch sử dân tộc, là sự kiện đã hoàn kết của dân tộc, là quá khứ tuyệt đối.

4. Nhân vật

Ưu điểm của tiểu thuyết sau năm 1954 viết về đề tài chiến tranh và cách mạng bước đầu đã kết hợp bức tranh cận cảnh và viễn cảnh, kết hợp được hình tượng của đám đông quần chúng với bức chân dung đậm đặc, tạo hình của vài ba tính cách cá nhân, tiến lên một bước trong quá trình điển hình hóa trong hình tượng người chiến sĩ chống đế quốc. Quá trình điển hình hóa đó đã giúp cho nhân vật trung tâm mang vẻ đẹp hình mẫu của thể loại tiểu thuyết sử thi này. Sau khi chị Tư Hậu bị giăc làm nhục là nỗi đau chồng chị hi sinh. "Tôi gục khóc lặng người. Lòng tôi nặng trĩu cô đơn. Chưa lúc nào nỗi đau đớn và cô đơn xâm chiếm lòng tôi cách cực mạnh như lúc này. Cha và mẹ tôi mất hồi tôi chưa biết khóc thương. Lớn lên tôi đã biết thế nào là số phận mồ côi, cái bơ vơ lạc loài của một đứa trẻ không cha không mẹ. Tôi đã sống qua những phút tê tái nhục hờn của một người vợ, một người mẹ, bị kẻ địch làm mất trinh tiết. Song tất cả từng ấy khổ não, chưa cái nào dằn vặt cấu xé tâm hồn tôi bằng cái tin buồn bất ngờ đến với tôi hôm nay. Là vì người vừa mất hôm nay chính là người đã dìu dắt tôi ra khỏi chỗ bơ vơ, là người đã làm an dịu được vết thương tủi nhục trên người tôi". Sau cái đêm mưa gió hãi hùng ấy, một người đàn ông đánh xe ngựa đến rước chị Tư Hậu đi đỡ đẻ. Bó chồng từ chối nói con dâu vừa mới có tang không đi được. Người đàn ông thở dài, nói vợ có thai tám tháng, bị thằng xếp bốt đá vào bụng, không khéo chết cả hai mẹ con. Chị Tư Hậu thương người vợ bất hạnh cùng cảnh ngộ, nén đau khổ lại, đội mưa gió ra đi. Đến nơi, chị vợ đã vượt cạn một mình, nhưng thằng bé chưa được ai cắt rốn. Người đàn bà đau thét, quằn quại vì cuống rốn còn, nhau chưa ra được, nếu để chậm thì "tính mạng người mẹ mười phần chết chín". Đỡ đẻ ngay trong lúc súng đạn của giặc nổ chát chúa " Chúng nó bắn lung tung không ngớt. Đạn bay véo véo trong mưa. Thình lình nhiều viên đạn từ vách lá bên này lọt sang vách bên nọ, cắm chen chét xuống đất ướt quanh nền nhà. Tôi lúng túng không biết day trở ra sao. Cái chết kề bên tôi. Muốn sống có thể nhân tiếng súng vừa ngớt bỏ chạy may ra thì sống. Tôi run lên. Có thể một viên đạn nào đó sẽ ghim vào người tôi, bắt tôi phải bỏ con tôi được lắm. Mấy phen tôi dậm chân muốn chạy rồi anh ạ. Mà tôi không chạy được. Cái buộc chân tôi lại lúc ấy là lương tâm tôi, là người mẹ trên giường và em bé sơ sinh kia. Chị ta còn bị đe dọa hơn tôi gấp bội phần. Tiếng súng nổ ra giữa lúc cái nhau còn dính trong người chị. Đứa con chị thân thể vẫn còn nhầy nhụa tanh bẩn, ngóc đầu quờ quạng."

Đáng lẽ chị Tư Hậu đang cần bấu víu vào một ai khác để vơi bớt nỗi đau khổ cô đơn của mình thì chị lại phải đứng ra làm chỗ dựa tinh thần cho một người khác. Và chị thấy nỗi đau này không của riêng ai, những người dân nghèo xung quanh chị cũng cực trăm chiều khi bị đồn bót giặc o ép. "Trời, như vậy thì có riêng gì tôi đâu. Trên khắp các ngõ đường, chiến tranh cứ đào thành hào hố thê thảm. Bao giờ thì những hào hố ấy mới được lấp bằng như cũ?".  Tính cách chị Tư Hậu đên đây chuyển qua một bước ngoặt mới. Người đàn bà từ chỗ nghĩ rằng phải nhờ người đàn ông giải thoát cho mình khỏi nỗi đau khổ đến chỗ tự mình đứng dậy giúp người khác vượt qua đau khổ và cuối cùng đi đến chân lý: bị áp bức thì phải đấu tranh: "Làm thế nào để anh Mười, chị Mười cũng như tôi hiểu được rằng một con người bị áp bức mà cứ lặng lẽ cam chịu không chống cự lại là con người ấy là dại. Bản thân tôi trước đã tưng cam chịu đau đớn, nay cũng chưa phải là thấu hiểu mọi lẽ đâu. Nhưng khi tôi chớm hiểu thì một sức mạnh trong người tôi trỗi dậy lấn át cả đau thương".

Chị Tư Hậu nghe lời chị Ba Dương tuyên truyền vợ chồng Mười Hợi, đưa cán bộ Đảng vào hầm vùng ở hậu địch. Công tác đoàn thể giúp chị dịu dần đau đớn, cảm thấy mình già dặn hơn sau mỗi lần thử thách: "Tôi nhận ra giờ đây tôi không đến nỗi trơ trọi, cô đơn. Xung quanh tôi từ ngày này đã băt đầu có bè bạn, đồng chí. Cộng thêm nỗi lo lắng đối với công việc đầu tiên, khiến tôi chan hòa mọi thứ cảm giác hết sức mới mẻ". Qua sáu tháng đưa cán bộ vào nằm vùng ở Hiệp Mỹ, Hiệp Lộ, chị Tư Hậu dần dần có cái bản lĩnh của  một cán bộ phụ nữ vùng địch hậu. CHị được kết nạp vào Đảng, được ban chấp hành phụ nữ huyện tuyên dương. Bị lộ, chị Tư Hậu phải gửi hai đứa con, rút vào hoạt động bí mật. Hai người đàn bà nuôi con chị thì một người bị giết, một người bị giặt bắt. " Thời gian trôi qua thật là nhanh. Trong tám tháng kể từ khi nhà tôi về rồi đi, đã có bao nhiêu việc xảy đến làm thay đổi đời tôi. Tính cả chuyến đi này là vừa đúng sáu lần tôi chịu trách nhiệm đưa anh em cán bộ vào các cơ sở mà tôi xây dựng lên. ở Hiệp Mỹ cũng như ở Hiệp Lộ, nói chung những cơ sở của chúng tôi đều là tốt. Sáu chuyến qua chưa có chuyến nào bị vỡ lở, tuy cũng có nơi phải chuyển. Kết quả của công việc ấy khiến tôi càng tin nơi tôi, tin nơi bà con. Cái công việc mà trước kia chị Ba Dương bàn với tôi, tôi cảm thấy khó khăn hầu như không gánh vác nổi, giờ đã quen dần với tôi. Chính công việc ấy đã mang đến cho tôi niềm vui và nỗi sung sướng mới. Đến hôm nay, tôi sắp tạm nghỉ việc để làm nhiệm vụ sinh con."

Rồi bọn giặc bắt nhốt hai đứa con chị vào đồn hành hạ "để đánh một miếng đòn ghe gớm vào tâm não tôi, để bức bách tôi vì các con mà phải ra hàng, khai báo cho chúng  tất cả các cơ sở ở vùng địch hậu". Với bản lĩnh vững vàng của một Đảng viên đã được dày dạn trong thử thách, chị Tư Hậu đã giữ vững phẩm chất một người con trung với Đảng, với dân; từ một người vợ, người mẹ hiền, chị đã trở thành người chiến sĩ. "... Từ đó về sau bận công tác tôi cứ đi luôn, thỉnh thoảng mới về nhà thím Ba. Nhiều lúc thấy tình cảnh con cái xa xôi vất vả, tôi cũng lo lắm. Nhưng công tác ngày càng phát triển, tôi không thể vắng mặt, đành cứ phải gởi chúng nó như thế, cố sao vừa công tác vừa tranh thủ chăm sóc cho con được từng nào hay từng ấy".

Có thể thấy rằng tính cách của chị Tư Hậu là sự đan xen giữa con người sử thi và con người tiểu thuyết. Sau khi đã được giác ngộ cách mạng, chị Tư Hậu một lòng hết lòng hết sức vì công tác địch ngụy vận, kìm nén nỗi đau riêng vì mất chồng, mất cha, mất cả nhà cửa để làm cách mạng với một tinh thần cao nhất, tưởng chừng như không có gì có thể cản nổi nỗi uất ức ấy trong lòng của chị; nhưng khi hai đứa con chị bị bắt, chị đã yếu mềm "Lúc ấy tôi nghĩ bụng: "Phải chi mình không đảm nhiệm cơ sở, để lo gìn giữ các con thì đâu đến nỗi thế này". Chị đã viết thư cho bọn giặc "... Hai đứa đó chính là con tôi, mấy người có tha thì tha, giết nó thì giết đi, chớ đừng đánh đập nó tội nghiệp. Còn tôi, tôi không ra hàng đâu..." . Đó là phần yếu mềm trong con người chị Tư Hậu, cũng vì bản năng làm mẹ, tình mẫu tử thôi. Đó chính là khía cạnh trong con người tiểu thuyết của chị Tư Hậu. Trong tiểu thuyết sử thi, nhân vật chính là người anh hùng, con người sử thi có thể chấp nhận trong nó những nhược điểm nhỏ nào đó của con người tiểu thuyết. Tiểu thuyết sử thi vẫn miêu tả những nét tự do của con người cá nhân, nhưng vẫn phải phục tùng cộng đồng, nên vẫn phải chuyển hóa thành con người sử thi của cộng đồng.

Trong Một chuyện chép ở bệnh viện, nhân vật chị Tư Hậu có khi đã chớm nở một tình cảm rất đẹp kiểu tiểu thuyết với nhân vật Dũng. " Vầng trăng đã lấp ló treo trên đầu các ngọn sao. ánh trăng chiếu vô vòm lá, khiến lá sao lấp loáng như có thoa mỡ. Rặng sao hứng lấy ánh trăng, chỉ buông rơi xuống mặt đường sỏi vắng vẻ những đốm sáng lỗ chỗ. Lúa tháng mười ở bên đường thoảng ngát mùi thơm ngọt của sữa gạo mới đọng lại trong vỏ hạt. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau. Vẫn chưa ai nói chuyện với ai một câu nào. Kể ra cái chuyến đi trên xe ngựa từ năm trước có lẽ giữa tôi với anh ấy còn được tự nhiên hơn nhiều. Chưa quen biết mà lại dễ nói. Chừng hơi quen hơi thân rồi sao lại khó nói. Người cán bộ trẻ đã làm tôi hơi khó chịu khi mới gặp, lâu nay anh ta thật là người đáng sợ đối với tôi. Cái bóng dáng của anh cứ xen vào cuộc đời tôi, muốn tháo gỡ mà tháo gỡ không xong, đành cứ để nó xen vào. Đôi lúc cảm thấy được an ủi, cảm thấy bớt trống trải. Song lẽ một chốc chi đó tôi lại đâm lo ngại rồi". Nhưng tình cảm ấy, chị Tư Hậu và cả anh Dũng đều gác lại, giấu trong lòng chẳng ai thổ lộ với ai. Họ đã quyết định đặt nhiệm vụ, lợi ích cách mạng lên trên. Cho đến khi anh Dũng sang Liên Xô học luyện kim, họ vẫn giữ trong lòng thứ tình cảm trên đồng đội, đồng chí ấy như một sự bỏ ngỏ "Trông qua đôi mắt chị Tư Hậu, lòng tôi lấy làm bồi hồi. Nhận thấy chị không nhắc gì đến Dũng, tôi mới hỏi:
- Chị Tư, câu chuyện giữa chị và đồng chí Dũng ấy thì sao?
Chị Hậu lặng thinh. Chốc sau, tôi thấy chị mỉm cười. Rồi dập tắt ngay nụ cười, chị nhìn một nơi khác nói:
- Anh Dũng à? Tôi quên... anh ấy tập kết ngay sau đình chiến, đi trước cả mấy đứa nhỏ tôi. Từ đó tới nay, tôi biệt có gặp ảnh, nhưng được cái thư từ thì đều lắm. Dũng đi học về luyện kim ở Liên Xô anh ạ. Tập kết ra, đi luôn tới nay. Thư nào gởi về cũng nói... - Trong thư, ảnh nói là kiên quyết không quên tôi. Bạn bè Liên Xô người ta hỏi anh ấy có gia đình chưa, anh ấy bảo là có rồi đưa người ta xem ảnh tôi. Cái ảnh tôi gởi ảnh hồi năm xưa. Đó là trong thư anh ấy nói thế, còn thì không biết thế nào... không biết sao nữa...". Như vậy, Bùi Đức Ái đã giải quyết một cách hài hòa giữa cái chung và cái riêng trong nhân vật anh hùng chị Tư Hậu, để giữ lại hình ảnh đẹp của một nhân vật anh hùng của sử thi, vừa trọn vẹn tính cách của một nhân vật tiểu thuyết. L. Martin nói: "Trong thế giới sử thi, không có chỗ cho bất cứ một sự dang dở, một sự chưa quyết đoán, một sự "có vấn đề" nào hết (...) Tính hoàn tất tuyệt đối và khép kín là một thuộc tính rất đặc sắc của quá khứ sử thi (...) Tiểu thuyết tiếp xúc với môi trường cái hiện đại chưa hoàn thành, chính đặc điểm này không cho phép thể loại ấy bị đông cứng lại. Người viết tiểu thuyết thiên về tất cả những gì còn chưa xong xuôi". Kết thúc tác phẩm, người đọc vẫn chưa có kết quả là Dũng và chị Tư Hậu có đến với nhau không, có kết thúc có hậu như sử thi hay không, tác giả vẫn còn bỏ ngỏ để người đọc tự phán đoán.

5. Có thể nói tên tuổi Bùi Đức Ái như một cây bút trẻ có nội lực và hứa hẹn được khẳng định bắt đầu từ truyện ngắn Con cá song, nhưng thật sự chắc chắn có hứa hẹn là từ tiểu thuyết Một chuyện chép ở bệnh viện. Giới phê bình đã tìm thấy một giọng điệu, mọt tiếng nói nghệ thuật mới trong văn xuôi đương thời. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao những đóng góp cả Bùi Đức Ái, qua tiểu thuyết Một chuyện chép ở bệnh viện, đã tạo nên "một hình tượng mới mẻ của người pụ nữ Việt Nam, chưa từng có trong văn xuôi cách mạng trước đó" (Phan Cự Đệ). Nhà thơ Trương Viết Lãm nhận định: "Câu chuyện chẳng có gì phi thường cả, sự việc nối tiếp nhau theo một trình tự  hầu như đã định sẵn. Nhưng dẫu sao chúng tac vẫn phải lo nghĩ, vui, buồn theo nhân vật, vẫn cứ chờ đợi kết thúc. Chỉ vì một lẽ đơn giản: đó là sự thật cách mạng, sự sống của nhân dân, đó là những ngày đau thương chúng ta đã từng biết, những phấn khởi chúng ta đã có"

Quả đúng như nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân nhận xét "Nếu không có sự dung hợp và chứa đựng các thủ pháp "ngoài sử thi" thì nền văn học này sẽ kém hấp dẫn, lôi cuốn". Điều này cũng đúng với trường hợp của Một chuyện chép ở bệnh viện. Có thể nói rằng Bùi Đức Ái tuy vốn sống và kinh nghiệm chưa nhiều nhưng với tình yêu của anh dành cho vùng đất và con người Nam bộ, đã giúp anh xây dựng thành công nhân vật chị Tư Hậu như một mẫu người anh hùng của thời hiện đại. Bên cạnh đó, nhà văn cũng đã biết cách dung hợp thể loại tiểu thuyết và sử thi một cách nhuần nhị để Một chuyện chép ở bệnh viện, như nhận định của Thiếu Mai là "một bài thơ ca ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của người dân bình thường của miền Nam kháng chiến", phản ánh đúng bản chất của con người lao động trong quá trình giác ngộ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thị Năm Hoàng, Anh Đức về nhà văn và tác phẩm, Nxb GD, HN 2007.

2. Thiếu Mai, Về một chuyện chép ở bệnh viện và Biển xa của Bùi Đức Ái, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 12, 1962.

3. Phan Cự Đệ, Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái, Tác phẩm văn học, Nxb Khoa học xã hội, HN, 1991)



Lê Kim Tám
Lớp Cao học Văn K17



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét