Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT Y ĐIÊNG (Phan Đình Huy)


Y Điêng (tên đầy đủ là Y Điêng Kpăhôp) là nhà văn sinh ra và lớn lên trên vùng cao nguyên Sông Hinh. Từ nhỏ ông đã được nuôi dưỡng bằng nguồn sữa ngọt lành của những bản trường ca bất tử như Đam San, Xinh Nhã, Khinh Dú ... nên tình yêu văn chương đã đến với ông rất tự nhiên. Mảnh đất và con người Tây Nguyên là nguồn cảm hứng sáng tác và là đề tài, bối cảnh cho nhiều tác phẩm của Y Điêng. Chính nhà văn từng nói: “Tất cả các tác phẩm của tôi đều cho thấy chiều sâu của văn hóa Tây Nguyên, chiều sâu trong tiếng chiêng ngân, trong nếp nhà dài với những cây cột bóng loáng mồ hôi nhiều thế hệ, trong những đêm kể Khan bất tận...”. Y Điêng viết nhiều thể loại nhưng mảnh đất mà ông gặt hái được nhiều thành công nhất là tiểu thuyết.


Trong tiểu thuyết, yếu tố đầu tiên mà nhà văn dày công xây dựng đó là nhân vật. Đó là nơi tập trung hết thảy tư tưởng của nhà văn. Nhân vật là phạm trù trung tâm của văn học vì con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học”.[12, tr.202]

Còn theo Giáo trình lý luận văn học thì nhân vật văn học được quan niệm rộng hơn: “Đó không chỉ là con người có tên hoặc không có tên, mà có thể là những sự vật, loài vật khác nhau, ít nhiều mang bóng dáng tính cách của con người, được dùng như những phương thức khác nhau để biểu hiện con người....Cũng có khi đó không phải là những con người, sự vật cụ thể mà chỉ là một hiện tượng về con người hoặc có liên quan đến con người, được thể hiện nổi bật trong tác phẩm.”[8,tr.126].

Theo Trần Đình Sử: “Nhân vật là đối tượng hướng đến của văn học, đồng thời là phương tiện để nhà văn phản ánh và khái quát hiện thực. Nhân vật văn học được sáng tạo ra, hư cấu ra là để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống, ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân vật là lên án đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Do vậy tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu cách hiểu về cuộc đời và con người, là tìm hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả đối với con người”[9, tr.26].

Dù có nhiều ý kiến khác nhau về nhân vật văn học nhưng phải khẳng định rằng nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong cấu trúc, thể hiện tư tưởng tác phẩm và quyết định sự thành công của tác phẩm văn học.

Trong tiểu thuyết Y Điêng, thế giới nhân vật hiện lên với đầy đủ các phương diện từ ngoại hình, hành động đến tâm lý, tính cách vừa mang những nét chung của con người Tây nguyên vừa mang những nét khu biệt với các nhà văn khác viết về Tây Nguyên nhưng có thể thấy nổi bật lên các kiểu nhân vật:  nhân vật cộng đồng; nhân vật nhỏ bé, bất hạnh; nhân vật phản diện, tha hóa và nhân vật nghệ sĩ.

1. Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng 
1.1. Nhân vật cộng đồng

Từ ngàn đời nay, người Ê Đê nói riêng và đồng bào Tây Nguyên nói chung sống một đời gắn bó với núi rừng, nương rẫy và buôn làng. Vì cuộc sống mưu sinh và để chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, giặc dã liên miên đã giúp con người thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ chia sẻ những khó khăn, nỗi đau cho nhau cả những niềm vui khi được mùa, hay trong những lễ hội của buôn làng. Vì vậy, người dân Tây Nguyên nói chung và người Ê Đê nói riêng có lối sống và tinh thần cộng đồng rất cao. Tinh thần cộng đồng không chỉ là cách để họ sống mà còn là tình cảm, là chuẩn mực đạo đức làm nên nét văn hóa đặc trưng của người Ê Đê , của Tây Nguyên.


Là người con của dân tộc Ê Đê, người con của núi rừng Tây nguyên, Y Điêng yêu mảnh đất ấy như máu thịt của mình. Ông đã dành cả tâm huyết và đời mình cho mảnh đất và con người nơi đây. Từng trang văn của ông lấp lánh vẻ đẹp của tình người mà trên hết là tinh thần cộng đồng.

Trong Truyện trên bờ Sông Hinh, tác phẩm có quy mô nhất của ông, ta có thể thấy từ trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày đến khi chiến tranh xảy ra, đồng bào bị dồn vào ấp chiến lược, con người đều một lòng sát cánh bên nhau. Từ những cuộc vui trong lễ hội ăn năm uống tháng đến khi trong làng có người mất cả làng đều chung tay lo liệu mọi việc một cách tự nguyện mà không đợi ai nhắc bảo.Hoạt động được người Ê Đê và người Tây Nguyên mong đợi nhất trong năm là mùa ăn năm uống tháng. Đây là hoạt động vui chơi mang tính cộng đồng rất cao. Tác giả miêu tả cảnh ăn năm uống tháng tổ chức ở nhà Ma Thin nhưng ta cứ ngỡ đây là ngày hội chung của cả buôn làng vì tính cộng đồng: “Tiếng chiêng trống ăn năm uống tháng của buôn Doan đã nổi lên (...) Các chàng trai cô gái đã sửa soạn cho nhà ông thêm rực rỡ. Con trai lo sửa lại sạp nhà, hiên nhà, làm cột đâm trâu. Các cô gái lo kiếm củi, giã gạo, hái lá chuối để gói cơm (...) Họ còn sửa soạn đón các trai gái làng khác đến để dự hội.”[2, tr.195-196].

Người Ê Đê nổi tiếng là hiếu khách. Khách của một nhà cũng là khách, là niềm vui chung của cả buôn làng: “Cái thói quen của làng hoặc của cả người Mơ- dhur là mến khách. Hễ nhà ai có khách lên là người làng dần kéo đến”[3, tr.100]. Dù gia đình có khách nghèo hay giàu thế nào cũng có ché rượu, con gà đã khách. Những thứ đó nếu chủ nhà không có thì đã có buôn làng thay họ tiếp đãi. Đây là một nét đẹp tiêu biểu cho tinh thần cộng đồng của người Ê Đê.

Tinh thần cộng đồng ấy còn mạnh mẽ hơn khi có bất kì một người con nào của buôn làng ra đi, từ gia đình nghèo như nhà Hơ Linh hay giàu có như nhà ma Thin mọi người đều chung tay đùm bọc nhau: “Cái làng nghèo nhưng một lòng đùm bọc nhau (...) ma Hơ Linh đã hết thở (...) Những người đến đều nhốn nháo cả. Kẻ chạy mượn trống, mượn chiêng để đánh trong đêm cho đỡ buồn tẻ(...) buôn làng cùng một lòng một tay, kẻ làm việc này, người làm việc nọ, chạy đi khắp nơi. Ai cũng lo cả, từ cuốn sáp ong, dựng gậy ban. Người nấu cơm, con trai thui gà để cúng người chết (...)Cả buôn làng thức trắng đêm.”[2, tr.40-41-42].

Tinh thần cộng đồng còn thể hiện rõ hơn khi con người rơi vào hoàn cảnh khó khăn, buôn làng liền chung tay giúp đỡ. Mí con Hơ Linh bị chánh tổng Y Sô vu cho có ma lai và tìm cách đuổi họ khỏi buôn Thu, hai mí con lặn lội đến buôn Doan. Bà con Buôn Doan liền giúp mí con Hơ Linh chọn đất, làm nhà mới:“Mỗi người giúp một tay (...) các chàng trai đã được phân công rồi, ai cũng muốn đi đâu phải là người đi trước và thứ mình làm phải là thứ tốt... các cô gái cũng phải hoãn tất cả các công việc hàng ngày. Họ đến giúp người bạn mới.”[2,tr.189-190].

Trong lao động sản xuất, các gia đình, thành viên của buôn làng thường làm đổi công cho nhau, đó cũng là cơ sở làm nảy sinh và phát triển cho con người cộng đồng. Theo Jacques Dounes: “Do cộng đồng huyết thống, nhiều làng là những thị tộc gia đình. Chính từ đó hình thành tính cộng đồng của người Tây Nguyên, biểu hiện bằng tính tương trợ vô tư, bằng việc vần đổi công thường xuyên, việc bình quân trong phân phối, v.v…”[2, tr.255].

Tinh thần cộng đồng biểu hiện cao nhất trong hoàn cảnh chiến tranh. Khi giặc Pháp đến, dân làng bị dồn vào ấp chiến lược, buôn làng từ già đến trẻ, không kể trai gái đồng lòng, mưu trí đấu tranh chống giặc:“Chính bữa lũ Tây đến là dịp đồng bào: đàn ông, lũ trai thắt lại khố, đàn bà con gái cuốn lại váy để đứng lên đấu tranh trở về buôn cũ. Trẻ con khóc, người mẹ không dỗ mà dùng khuỷu tay thích vào chúng đau, lũ trẻ càng khóc, người này nhắc khuyên người mẹ mỗi lúc một nhiều người nói thêm ồn ào, kẻ đứng người ngồi. Đa số người dự họp là phụ nữ có con mọn khi con khóc thì họ đi ra, lúc đầu đứng ở đầu hồi nhà gần đó rồi lần lượt đi thẳng về nhà mình. Các ông cũng đứng dậy, chẳng ai nghe.”[2,tr.260-t2]
Có thể thấy, để sống được với núi rừng, nương rẫy, với thiên tai, giặc dã, đồng bào Tây Nguyên đã đoàn kết một lòng để bảo vệ mình và bảo vệ buôn làng. Chính điều này đã làm nên nét đẹp văn hóa cho người Ê Đê và người Tây Nguyên đó là tinh thần cộng đồng. Vì vậy, con người cộng đồng là một yếu tố tiêu biểu trong việc xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng.
1.2. Nhân vật nhỏ bé, bất hạnh
Đọc các sáng tác của Y Điêng, bên cạnh con người cộng đồng còn có những con người nhỏ bé, bất hạnh. Dù vẻ đẹp tiêu biểu của người Tây Nguyên nói chung và người Ê Đê nói riêng là tính cộng đồng nhưng dù được sự che chở, giúp đỡ của tập thể nhưng sống dưới chế độ thực dân, đế quốc đồng bào không thể nào có cuộc sống tốt đẹp vì vậy có không ít những nhân vật có số phận nhỏ bé, bất hạnh trong tiểu thuyết Y Điêng.
Trong Chuyện trên bờ Sông Hinh,Mí Hơ Linh mất chồng chỉ vì cha Hơ Linh đi hái cà phê lỡ tay làm gãy một cành cà phê bị thằng cai đánh và chết một cách oan uổng. Hơ Linh vì khước từ thẳng thừng tình cảm của chánh tổng Y Sô liền bị hắn vu cho mí con Hơ Linh có ma lai, bị trục xuất khỏi buôn Thu. Nhưng đến buôn Doan, mí con Hơ Linh cũng nào có yên. Một lần nữa, Y Sô lại mách ma Thin - chủ bến nước buôn Doan rằng chính mí con Hơ Linh có ma lai nên đã ăn chết con trai ông chủ bến nước và bị kiện phải đền hai mươi lăm con bò cho ông chủ bến nước nếu không chứng minh được mình không có ma lai. Để chứng minh hai mẹ con trong sạch, mí Hơ Linh đã uống một mạch cạn cả ché rượu và cũng từ đó bà mắc bệnh chết để lại Hơ Linh thui thủi một mình. Một cô gái đẹp, hiếu thảo, đảm đang là niềm mơ ước của nhiều chàng trai đáng lẽ ra phải sống hạnh phúc nhưng dường như bao nhiêu tai họa, mất mát cứ dồn đến với Hơ Linh. Nhân vật Hơ Linh làm chúng ta nhớ đến Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Mị là một cô gái trẻ đẹp, giỏi giang, có tài “thổi lá cũng hay như thổi sáo bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến núi khác” vậy mà vì món nợ của ba mẹ và nỗi sợ hãi trước cường quyền, thần quyền đã biến cô gái trẻ trung, xinh đẹp phải cam chịu cuộc sống “lùi lũi như con rùa trong xó cửa” trong nhà thống lí Pá Tra. Hai cảnh ngộ, hai tính cách nhưng Hơ Linh và Mị dường như có điểm chung: họ đều là nạn nhân của cường quyền và thần quyền.

Không chỉ có những người phụ nữ nhỏ bé là nạn nhân của thần quyền và cường quyền mà ngay cả nhưng thanh niên khỏe khoắn, biết suy nghĩ, có ít cái chữ cũng là nạn nhân của bọn tay sai dưới chế độ thực dân. Y Thoa chỉ vì cứng đầu không chịu làm giấy tờ tùy thân và là người yêu của Hơ linh- người mà chánh tổng Y Sô thèm khát nên Y Sô đã mượn tay của quan huyện bắt Y Thoa đi tù dù không có tội gì cả: “Mãi đến lúc này Y Thoa cũng chưa biết mình bị mắc tội lớn gì mà bị giam ở đây.”[2, tr.173]. Đến khi Y Thoa mãn hạn tù, Y Sô vẫn nhờ quan trên nhốt thêm Y Thoa một thời gian nữa, càng lâu càng tốt. Nếu Hơ Linh khiến ta nhớ đến nhân vật Mị thì Y Thoa làm ta nhớ đến A Phủ trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Họ là những chàng trai khỏe mạnh, tốt bụng, không sợ cường quyền của hai miền đất khác nhau nhưng cùng chung cảnh ngộ là nạn nhân của bọn chúa đất miền núi.

Con người nhỏ bé, bất hạnh không chỉ là những cá nhân đơn lẻ mà còn là tập thể của những người cùng số phận, hoàn cảnh. Trên đường bị giải lên Buôn Ma Thuột, Y Thoa đã nhận ra rằng không chỉ có mỗi mình mình cực khổ mà còn nhiều người còn thê thảm hơn mình nữa: “Lâu nay anh cứ tưởng tượng, anh gầy yếu hơn mọi người. Nhưng khi đến nơi đây, anh thấy mọi người chỉ còn đôi mắt động đậy, da bọc xương khô khốc”[2, tr.179]. Anh hiểu ra không chỉ mình bị bắt bớ vô cớ mà nhiều người kinh cũng có số phận như mình. Khi vào tù, Y Thoa nhận ra: “Những người bị giam này đều bị oan cả, còn bao nhiêu chuyện trên bờ Sông Hinh nhỏ bé này ai thấu được.”[2, tr.173], “Đến nhà lao Buôn Ma Thuột, tôi thấy rất nhiều người Ê đê bị tù, người thì đi tù vì con không chịu đi lính,người bị nghi có ma lai, kẻ thì cãi lại miệng của chánh tổng” [2, tr.289] và quan trọng hơn anh biết được: “Người Kinh và người Ê đê đều nghèo và biết yêu thương lẫn nhau”[2, tr.179] không như lời chánh tổng Y Sô bịa đặt rằng người Kinh toàn là xấu xa cả để chia rẽ người kinh với đồng bào.

Trong Ba anh em, ta gặp ba chàng trai của ba làng khác nhau nhưng họ bắt gặp chung nhau ở một điểm đó là cái nghèo và bị áp bức, bóc lột đến tận xương tủy nên họ rủ nhau đi tìm nơi có cuộc sống tự do, đủ ăn, đủ mặc và không còn bị áp bức nữa, mọi người biết yêu thương nhau: “Ba anh em chúng tôi, ba làng khác nhau, nhưng ở làng nào cũng bị kẻ xấu áp bức bóc lột đến tận xương tủy. Làm nương rẫy không nghỉ nhưng rồi ăn không đủ. Dân cả ba làng đau khổ suốt năm tháng.”[4, tr. 93, 94].

Rõ ràng, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đã lợi dụng sự mê muội, ít học của đồng bào Ê Đê, mượn tay của thần quyền, cường quyền để cai trị, bóc lột họ, đẩy họ đến đường cùng, phải sống cuộc sống thê thảm.

Qua những mảnh đời, số phận bất hạnh phải chăng Y Điêng đang nói hộ những ước mơ, giãi bày éo le, uẩn khúc và niềm mong mỏi của những con người nhỏ bé bình dị quê ông cũng như những người con của Tây Nguyên đầy nắng và gió này?

1.3.  Nhân vật phản diện, tha hóa

Hòa chung dòng chảy cảm hứng sử thi của văn học 1945- 1975, sáng tác của Y Điêng cũng không thoát khỏi dòng cảm hứng ấy. Cảm hứng sử thi viết nhiều về những nhân vật anh hùng mang vẻ đẹp của dân tộc, thời đại đối nghịch với họ là những nhân vật phản diện, tha hóa, tiêu cực. Tác phẩm Y Điêng hầu hết viết về những con người Tây Nguyên với vẻ đẹp thuần phác, mộc mạc, thẳng thắn, nguyên thủy như chính núi rừng, nương rẫy nơi đây. Họ sống thật lòng, thật bụng như dòng sông, con suối không biết ghét bỏ, làm hại ai bao giờ. Nhưng khi thực dân Pháp đặt chân đến mảnh đất màu mỡ này chúng đã dùng đồng tiền và quyền lực biến không ít những người Ê Đê chất phác, hiền lành thành tay sai đắc lực cho chúng mà tiêu biểu hơn cả là nhân vật Y Sô. Hắn là nhân vật phản diện được Y Điêng đầu tư khắc họa kĩ lưỡng nhất trong các tác phẩm của mình. Hắn không phải là nhân vật “đơn phiến” mà mang nhiều tính cách hiện thân tiêu biểu cho lũ tay sai bán nước: tham lam, háo sắc, bất chấp đạo lý, luật tục nhưng vô cùng khôn khéo. Trước khi thành chánh tổng, Y Sô cũng là chàng trai hiền lành như bao chàng trai Ê Đê khác của vùng đồi cỏ Sông Hinh nhưng khi bọ Tây đến nâng hắn lên làm chánh tổng thì hắn đã thay đổi hẳn:

“Hắn đi đến làng nào trong tổng, gái làng đó phải trốn đi hết cả, đến trời tối om mới dám về nhà và lờ mờ sáng lại lên nương rẫy. Mỗi lần hắn đến được chủ làng cột rượu mà không thấy đứa con gái nào đến thả nước thì ông chủ làng đủ nhét kín tai lại mà vẫn cứ nghe hắn mắng nhiếc thậm tệ (....) Từ ngày hắn làm chánh tổng, hắn làm trái hết mọi luật tục tốt đẹp ở vùng đồi cỏ này. Không những đối với người lớn, con trai, con gái mà ngay đến cả trẻ thơ đang chạy diều đánh quay kia cũng bị hắn bắt nạt (...) người ta sợ nhất là hắn lên nhà, y đã lên nhà rồi đâu phải về không. Phải rượu cột, cơm nấu, gà thui chứ. Nếu nhà nào không có phải đi mượn, nếu nhà nào để hắn về không thì coi như một cái nợ cho mình vậy.”[2, tr.73-74-75].

Y Sô đã có vợ nhưng vẫn không kiềm lòng được trước Hơ Linh- em hái họ của mình. Hắn giả vờ tốt bụng cho tiền mí Hơ Linh mua muối nhưng cốt âm mưu chiếm đoạt Hơ Linh. Hắn mò đến nhà Hơ Linh, định sàm sỡ Hơ Linh nhưng bị cô đạp ngã lăn xuống cầu thang. Tức tối vì không chiếm được Hơ Linh, hắn vu cho mẹ con Hơ Linh có ma lai để ép họ ra khỏi buôn Thu. Hắn mượn tay quan trên để đẩy Y Thoa vào tùchỉ vì Y Thoa là người yêu của Hơ Linh.

Y Sô không chỉ tham lam, háo sắc mà còn rất nham hiểm, xảo trá. Hắn xúi ma Thin kiện mí con Hơ Linh có ma lai đã ăn chết con ông. Nếu ma Thin thắng kiện, mí Hơ Linh phải chết còn Hơ Linh phải bị bán đi để đền hai lăm con bò. Như vậy hắn sẽ thủ tiêu được mí con Hơ Linh để xóa sạch tiếng xấu của mình. Còn nếu mí con Hơ Linh thắng kiện thì Y Sô sẽ kiếm được không ít tài sản từ nhà ma Thin vì hắn là anh họ của Hơ Linh nên đằng nào hắn cũng là người có lợi.

Hờ Giang là tác phẩm mang đậm khuynh hướng sử thi và cũng là tác phẩm có nhiều nhân vật tha hóa nhất trong các tiểu thuyết của Y Điêng. Đó là Ma Sa, Ma Lóa- những kẻ đã từng đi lính cho Pháp, nay về già lại làm tay sai cho đế quốc Mỹ; Y La là tên lính Ngụy khét tiếng trong việc trị dân, dồn dân vào ấp chiến lược; Y Soa – chồng của Hơ Linh, một cán bộ cách mạng mẫn cán lại đi theo biệt kích Mỹ. Những nhân vật tha hóa này chủ yếu bị đồng tiền chi phối nên đã chấp nhận đi theo và trở thành tay chân đắc lực cho Pháp, Mỹ. Tuy nhiên cũng có nhân vật không đơn thuần chỉ vì tiền mà còn vì cả sự ghen tuông mù quáng. Y Soa từ một chàng trai rất giỏi giang với công việc nương rẫy, có tài đan gùi rất đẹp, rất yêu thương gia đình, vợ con vậy mà bị tên Ma Lóa xúc xiểm, xúi giục rằng con gái của anh và Hờ Giang chưa chắc là con của anh vì Hờ Giang là cán bí thư xã đi công tác suốt. Vì ghen tuông mù quáng, Y Soa đã rời buôn làng theo bọn biệt kích Mỹ và tệ bạc hơn chính anh nhẫn tâm kéo bọn biệt kích về buôn và giết Hờ Giang- người vợ anh từng yêu dấu hôm nào ngay trên mảnh rẫy còn thấm giọt mồ hôi của hai vợ chồng anh. Chính Hờ Giang cũng không ngờ chỉ trong một thời gian ngắn mà bọn Mỹ lại có thể biến chồng mình từ một người hiền lành thành một con thú hung dữ đến như vậy:

“Y Soa chạy xộc vào, Y Soa mặc bộ quần áo rằn ri, nước da đen lại, mặt mày trông rất hung dữ. Hơ Giang nhìn mãi mới nhận ra được. Không được bao lâu mà bọn xâm lược Mỹ đã biến con người hiền lành nhanh chóng trở thành một con thú (…) Đôi mắt nó dần căm thù đỏ như mắt trâu điên ngoài rừng”[6, tr.856.]

Nhân vật phản diện, tha hóa được Y Điêng miêu tả không chỉ là những cá nhân mà có khi là đám đông của những kẻ cùng bản chất cướp bóc, khát máu, mất cả tính người. Bọn biệt kích Mỹ hiện lên dưới ngòi bút Y Điêng: “Tên chỉ huy nhếch mép cười, trong cái miệng của hắn chứa đầy răng vàng đã biến màu đo đỏ hưng tợn (...) một số tên lính khác đi lùng xung quanh rẫy. Thằng mổ dưa gang, tên hái dưa hấu, bẻ ngô tươi. Chúng làm như cái rẫy không có chủ. Bọn chúng hầu hết là những tên ăn cắp.”[6, tr.854-855]

Tuy nhiên, kiểu nhân vật phản diện, tha hóa chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tiểu thuyết Y Điêngcòn lại là những nhân vật tốt, dù có lúc bị xúi giục, mê muội nhưng với bản chất lương thiện vốn có của người Tây Nguyên và sự đoàn kết, vị tha của buôn làng họ sớm nhận thức và tỉnh ngộ để trở về với phẩm chất tốt đẹp vốn có của mình. Như vậy, xây dựng kiểu nhân vật phản diện, tha hóa tác giả đã tố cáo tội ác của bọn thực dân gieo rắc khổ đau cho đồng bào Tây Nguyên, làm biến chất những người dân lương thiện.

1.4. Nhân vật nghệ sĩ

Trên mảnh đất Việt Nam có lẽ không nơi đâu thiên nhiên ưu đãi và tươi đẹp như mảnh đất Tây Nguyên. Có lẽ vẻ đẹp của những đồi thông, những cánh rừng bạt ngàn, những con suối trong xanh mát rượi mà mẹ thiên nhiên đã phú cho người Tây Nguyên một cảm quan và năng khiếu âm nhạc bẩm sinh. Đọc tác phẩm nào của Y Điêng ta cũng bắt gặp những nhân vật giàu chất nghệ sĩ mà nhất là âm nhạc.

Người đồng bào Tây Nguyên sống gắn với lời ca tiếng hát từ trong cuộc sống, lao động, các lễ hội đến trong chiến đấu âm nhạc vẫn theo họ. Âm nhạc như một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần người tây Nguyên. Ngay khi đứa trẻ ra đời, trong lễ thổi tai, đứa trẻ đã được nghe những giai điệu âm nhạc đầu đời đó là âm thanh của cồng chiêng. Tiếng cồng tiếng chiêng đã theo họ trong mọi lễ hội, từng niềm vui, nỗi buồn của buôn làng đều có bóng dáng của cồng chiêng. Và đến khi họ nhắm mắt từ giã cõi đời thì một lần nữa cồng chiêng lại được tấu lên để tiễn họ về với giàng trời, giàng đất.

Trong Chuyện trên bờ Sông Hinh, những nhân vật trong tác phẩm đều rất thích hát và hay hát. Họ hát để tìm bạn đời cho con gái, con trai của họ: “Trong bữa rượu khi hơi men đã thấm vào miệng, bà mẹ nào có con trai cũng phải hát ngỏ lời với mí Hơ Linh” [2, tr.43]. Vì vậy khi đã chọn được con dâu ưng ý, Mí Y Thoa tự hào hát ca ngợi con trai, con dâu Hơ Linh của mình: “Trong những ngày hội khi ăn cơm no, uống rượu say bà cũng có thể hát đôi điều về người con trai của mình, người con dâu của họ.”[2, tr.13-14-t2].

Trong Hờ Giang, một lần nữa ta bắt gặp chất nghệ sĩ đó. “Gian nhà trong các bà có hơi men vào là có tiếng hát”[6, tr.614]. Đặc biệt ta không thể quên giọng hát của mí Y Soa khi hát với mẹ Hơ Giang để hỏi Hơ Giang cho con trai mình: “Giọng hát rất thanh, nghe nó trong đêm như bò theo từng cái sạp nhà, ngọt ngào như gió xuân về.”[6, tr.614]. Tiếng hát không chỉ là phương tiện để đối thoại, để tìm bạn đời mà họ hát còn vì “say nghĩa, say tình”.

Có lẽ không ở đâu trong lúc “cay đắng chán chường”, con người vẫn hát như ở Tây Nguyên. Dường như hát là một nhu cầu bản năng, tự nhiên và phóng khoáng như núi rừng. Mí Hơ Linh khi ra rẫy nhớ chồng - hát. Ngồi vá áo thương con, thương thân phận của mình cũng hát. Tiếng hát như tiếng lòng cất lên về một kiếp người gặp bao cay đắng, éo le. Tiếng hát như một sự giãi bày, trút bớt những phiền muộn trong lòng.

Ngoài tiếng hát, họ còn rất giỏi chơi các loại nhạc cụ. Đó cũng là cách để họ bộc lộ cảm xúc của lòng mình. Y Thoa được miêu tả là chàng trai không những khỏe mạnh, thạo công việc mà còn chơi đàn rất giỏi khiến nhiều cô gái say đắm: “Tiếng nhị của anh dìu dặt, nỉ non leo đến tận tai mọi người, mát như mặt đất thấm hạt sương. Tiếng nhị đi qua cửa chính, luồn qua cửa sổ bò đến chiếc chiếu của các cô đang nằm (...) tiếng nhị của anh, không phải một cái gì phẳng lặng, có lúc thẳng rõ, lúc lại khúc khuỷu, vừa nhẹ nhàng nhưng lại vừa thúc giục, mỉa mai đối với ai còn chần chừ (...) Tiếng đàn khi êm ả điệu hát hơ - ri, khi thánh thót bắt chước theo giọng hót của chim trên rừng đơ - lay - gia.”[2, tr.99-100].

Trong Ba anh em, nhân vật Y Nguyên được miêu tả ngoài vẻ đẹp trai, giỏi võ nghệ, trọng tình nghĩa còn có tài vỗ trống, đánh chiêng không ai bằng :“Nói về công việc đánh chiêng vỗ trống thì anh Y Nguyên có biệt tài … khi anh đeo trống vào người… làm cho các cô gái say sưa và nhảy múa càng duyên dáng hơn.[4, tr.50]. Tiếng trống, tiếng chiêng của anh làm các cô gái say đắm, các cụ già thấy tự hào về người con của dân tộc mình đã giữ được cái hồn của văn hóa buôn làng Tây Nguyên trong từng tiếng chiêng, nhịp trống vì vậy mà mỗi khi thiếu anh, lễ hội của buôn làng như kém vui hẳn đi.

Người dân Tây Nguyên thường mượn tiếng hát, tiếng kèn để xua tan cái mệt nhọc sau một ngày làm lụng vất vả:“Từ con suối, đường rẫy, cây đổ kiến vàng. Những bóng cây mát trên đường rẫy, sau khi đi làm rẫy về cùng bạn bè ngồi lại thổi kèn đinh tút, đinh năm”[6, tr.635-636].

Có lẽ sống giữa đại ngàn Tây Nguyên tươi đẹp đã làm con người nơi đây sống rất nghệ sĩ và phải chăng cũng nhờ chất nghệ sĩ này mà họ vượt qua được cuộc sống lao động vất vả và sự khắc nghiệt của cái nắng, cái gió nơi này. Phẩm chất này bổ sung và làm nên vẻ đẹp đặc trưng không lẫn vào đâu của người Sông Hinh và người Tây Nguyên.

2. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng

Nhân vật là nơi tập trung thể hiện quan niệm, tư tưởng của nhà văn về con người, cuộc đời. Vì vậy để khắc họa nhân vật, nhà văn thường tập trung miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, hành động và tâm lý nhân vật để từ đó khái quát  những vấn đề mà nhà văn muốn hướng tới.

2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật

Để khắc họa nhân vật, thủ pháp mang tính truyền thống và tạo ấn tượng trước hết đó là miêu tả ngoại hình nhân vật. Do đó không phải ngẫu nhiên các tác phẩm văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Y Điêng nói riêng, nhân vật thường được trau chuốt kĩ về mặt ngoại hình.

Ở đâu và khi nào người phụ nữ cũng luôn là tâm điểm của cuộc sống. Trong các tiểu thuyết của mình, Y Điêng đã dành tất cả tình yêu, sự trân trọng của mình đối với người phụ nữ. Chính ông kể rằng: “Con gái quê ông đẹp lắm, đẹp đến nỗi đi nhiều nơi, ông vẫn thấy không nơi nào hơn, ông vẫn thấy con gái quê ông là nhất… con gái Tây Nguyên khi còn trẻ đều để ngực trần, cái đẹp lồ lộ tự nhiên như trời đất, như núi như đồi như bầu như bí nhưng nó lại phô phang quá, đầy đủ quá, no nê quá, ngạo nghễ quá…”[7]. Phải chăng vì vậy mà trong tất cả các tiểu thuyết của mình ta không thấy có người phụ nữ nào xấu cả, họ đẹp từ ngoại hình đến tính cách, tâm hồn.

Trong Chuyện trên bờ Sông Hinh, Hơ Linh là người phụ nữ được tác giả miêu tả kĩ nhất. “Khuôn mặt của Hơ Linh chị trăng cũng phải nghẹn, đôi mắt đón nắng sớm như đóa hoa aring.”[2, tr.43], “Cái mặt hơ Linh hoa kơ tinh cũng phải thua”[2, tr.47]. Hay miêu tả Hơ Ninh, cô gái xấu số bị chết trong trận bom của giặc nhưng vẻ đẹp vẫn sóng sánh trong lòng người đọc:“Thân hình nhỏ nhắn, nước da như trái cơ- chin chín vàng sẫm, đôi mắt tròn, cái ngực chim Kơ- Trâu phải ghen, cái lưng kiến vàng nhường cho.”[3, tr.244].

Trong Hờ Giang, nhân vật nữ anh hùng càng được mô tả kĩ lưỡng từ nụ cười như tỏa nắng “hai hàm răng đều dặn như hoa dăm ké”[6, tr.586-587] đến đôi mắt, làn da “chỉ thấy đôi mắt của em mới còn sắc sảo, nước da màu trái ê mau của em làm cho thân hình em rắn rỏi. Đôi môi khô lúc này đã biến đâu rồi, giờ đây là nụ hoa dăm ké”[6, tr.592], và mái tóc“cái tóc của nó dài tha thướt như một lớp mây giăng qua đỉnh núi xanh. Con suối chảy từ trên đỉnh núi Chú- giang- sin cũng thua, con mắt của nó, con hông sai có đôi mắt tinh nhất làng vẫn còn bỏ sót nhụy hoa trên cành. Cái răng của nó, hoa dăm dé không đều bằng. Nước da trái ê mau của nó mịn màng và hồng hào.”[6, tr.633- 634].

Quả thực, Y Điêng đã dành cả tình yêu của mình cho những cô gái Tây Nguyên nên mới chắt chiu tạc nên những câu văn gợi cảm như vậy về những người con gái quê mình. Nếu như thiên nhiên Tây Nguyên làm nên những thắng cảnh hoang sơ, kì vĩ thì những cô gái Tây Nguyên như những bông hoa aring, kơ tinh làm đẹp cho núi rừng, làm say đắm lòng người.

Bên cạnh những người phụ nữ, ta bắt gặp những chàng trai Tây Nguyên mang vẻ đẹp như bước ra từ những trường ca huyền thoại.Nếu nhưtrong tác phẩm của mình Nguyên Ngọc tập trung miêu tả hình dáng nhân vật ở vầng trán rộng, đôi mắt sáng, cánh tay vững chãi và đặc biệt là khuôn ngực vạm vỡ, vóc dáng quắc thước để qua đó làm toát lên tính cách mạnh mẽ, cương nghị của nhân vật thì Y Điêng lại chú ý nhiều đến làn da nâu, ngăm đen, rám nắng của những con người quanh năm đầu tắt mặt tối với cái nắng, cái gió khắc nghiệt của Tây Nguyên. Đó là những chàng trai như Y Thoa: “Y Thoa ở trần, nước da trái ê- nâu của anh bị nắng rám, mồ hôi nhễ nhại làm cho đen láng đi.”[2, tr.124-125], Y Nguyên và Y Khăm trong Ba anh em với“cái làn da rắn chắc của người làm nương rẫy”[4, tr.63], hay miêu tả anh Huyện đội trưởng: “Người anh to bề ngang, khỏe cứng như một khúc gỗ cà te lõi, nhìn phía trước như anh mang cả một chòi lúa rất nhẹ nhàng. Nước da ngăm đen, chắc.”[5, tr.30].

Nếu hình ảnh làn da nâu, đen chắc gợi lên những chàng trai lao động vất vả thì hình ảnh cánh tay, bắp chân to khỏe cho ta thấy những chàng trai với sức khỏe hơn người, dũng mãnh của những anh hùng trong sử thi. Y Thoa “Bắp thịt của các cánh tay nở phồng mạnh khỏe” [2,tr.119]. Trong Ba anh em, Y Điêng miêu tả Y Nguyên và hai người em kết nghĩa Y Khăm và Y Rin mang vóc dáng của các tù trưởng anh hùng trong sử thi xưa:“Y Nguyên ăn mặc khác thường, trên lưng đeo con dao đi rừng, tay cầm khiên và sau lưng cõng một gói hành lý gọn gàng như một tù trưởng ra trận”[4, tr.t80]. Và khí thế, quyết tâm của ba anh em khi lên đường tìm miền đất hứa: “Ba người con trai ra đi. (…) Hình dáng của ba người cao thấp như chọn lựa, chiều ngang tròn lẳn khỏe mạnh. Chỉ có Y Rin nước da bánh mật… hành lí của cuộc hành trình vẻn vẹn mỗi người có một gói nhỏ bọc trong chăn cõng sau lưng. Đi đầu trần đội nắng mưa, chân đi không, đạp núi, lội sông.”[4, tr.90,91].

Miêu tả ngoại hình không chỉ giúp người đọc hình dung chân dung các nhân vật mà qua đó còn góp phần thể hiện tính cách nhân vât. Nếu các nhân vật chính diện được Y Điêng miêu tả bằng những câu văn đẹp, gợi cảm thì các nhân vật phản diện hiện lên với ngoại hình dị dạng, méo mó thậm chí bị vật hóa để trùng khít với “tâm địa quỷ” của những kẻ tàn bạo, gây bao tội ác cho con người.

Trong toàn bộ sáng tác Y Điêng nói chung và tiểu thuyết nói riêng, không có nhân vật phản diện nào được khắc họa kĩ lưỡng và tỉ mỉ như Y Sô. Từ hình dáng, ngôn ngữ, hành động và cả tâm lí đầy biến động của hắn khi ông chủ thực dân Pháp còn cai trị ở xứ này đến lúc bị Nhật hất cẳng phải chạy trốn như lũ chuột đầy khiếp sợ. Chỉ qua ngoại hình hắn thôi, ta cũng phần nào thấy được bản chất, tâm tính của hắn: “Hắn cao dong dỏng như một cây tre. (…) nước da của hắn cũng như da của cây tre khô hơi mông mốc. Mặt choắt, trán nhỏ hẹp mấy sợi tóc trùm kín lại” [2, tr.16], “cái trán nhỏ hẹp bằng lá lúa ít hiểu biết của mình”[2, tr.96]. Y Điêng đặc biệt chú trọng và chi tiết “cái trán” để tố cáo cái bản chất ít học của Y Sô và có lẽ đó là nguyên nhân chính đã gây ra nhiều đau khổ cho buôn làng.Đặc biệt người đọc ám ảnh và ấn tượng với hình ảnh “cái cười của hắn cũng khác với mọi người, hàm răng bị cưa tận lợi đỏ, khi cười không thấy một cái răng nào, nhìn cái cười của hắn mà sợ hãi” [2, tr.70]. “mỗi lần hắn nói, từ trong miệng phả ra một mùi rượu chua pha với mùi thối khó chịu”[2, tr.87] chính ngoại hình đó giúp người đọc phần nào nhận diện bản chất đê tiện, tàn độc hèn hạ của Y Sô.

Không chỉ miêu tả ngoại hình của một cá nhân mà có lúc Y Điêng còn giúp người đọc thấy được cả một lũ bán nước, khát máu, hung tàn dù chỉ qua vẻ bề ngoài của bọn lính Ngụy:“Bốn tên chỉ huy đang đi trên đường lùng, áo quần rằn ri như những con hổ điên ngoài rừng. Tên nào súng lục đeo xệ xuống, mũ lệch, thằng nào cũng đen thui thủi, mồ hôi ướt đầm một nửa áo phía trước”[6, tr.649].

Có thể nói nếu như các nhân vật chính diện được Y Điêng ngợi ca như những cánh hoa aring, hoa dăm ké làm đẹp cho đời hay những cây lim, cây cà te vững chãi làm chỗ dựa cho buôn làng thì điểm chung trong miêu tả các nhân vật phản diện, tha hóa là chúng mang hình hài méo mó, dị dạng của con vật, thậm chí là quỷ dữ. Vì trong suy nghĩ của Y Điêng, kẻ gieo tai vạ, đau khổ cho chính bà con, buôn làng mình thì khác nào quỷ dữ.

Dù ngoại hình miêu tả chưa nhiều, ít tạo được sự khác biệt, cá tính hóa giữa các nhân vật bởi sự so sánh mang tính chung chung theo tư duy của người Tây Nguyên nhưng ít nhiều giúp người đọc nhận diện được tính cách của các nhân vật, đặc biệt là thấy được vẻ đẹp đặc trưng của người Tây Nguyên và sự xấu xa, đê hèn của các nhân vật phản diện.

2.2. Miêu tả hành động nhân vật

Đặc trưng trước hết phải nói đến về con người Tây Nguyên là những con người ít nói và thiên về hành động. Có lẽ cuộc sống giữa núi rừng đại ngàn, quanh năm làm bạn với mảnh rẫy, cánh rừng, con suối lặng thầm nên con người cũng vậy. Họ bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình cũng chủ yếu bằng hành động, nghĩ sao làm vậy. Hành động không chỉ là phương châm sống, lối sống mà đã trở thành văn hóa của người Tây Nguyên.

Trong sinh hoạt hằng ngày, lúc ăn năm uống tháng hay khi buôn làng có người mất đi không ai bảo ai, mọi người trong làng đều tự nguyện đến giúp chủ nhà một tay. Điều đó đã trở thành lẽ sống, đạo đức, văn hóa. Vì vậy ta không ngạc nhiên khi thấy trai gái làng hồ hởi đến giúp chuẩn bị lễ ăn năm uống tháng nhà ma Thin: “Các chàng trai cô gái đã sửa soạn cho nhà ông thêm rực rỡ. Con trai lo sửa lại sạp nhà, hiên nhà, cột đâm trâu. Các cô gái lo kiếm củi, giã gạo, hái lá chuối  để gói cơm...Kẻ mang lá nhét ché rượu bước lên, người khiên nồi bung đi múc nước”[2, tr.197].

Hành động được miêu tả kĩ và ấn tượng nhất với những nhân vật anh hùng. Miêu tả cảnh Y Thoa đánh hổ: “Y Thoa liền ngồi xuống ngay con hổ nhảy chụp nhưng qua mất. Mất đà con hổ rơi xuống vũng nước bọt nước tung lên trắng xóa (...) Con hổ vừa bước lên bờ thì vừa gặp cú đá của Y Thoa chỉ có rú lên một tiếng nghe rợn cả núi sông”[3, tr.11].

Ta thấy cảnh Y Rin một mình chiến đấu với đàn chim Kơ Rứ như hành động dũng mãnh của Đam San, Xinh Nhã trong sử thi: “Anh nhảy ra ngoài hiên nghênh chiến. Tay trái cầm khiên, tay phải cầm đao bén lấp loáng như chớp tháng ba. Anh đứng hiên ngang giữa hiên. Mỗi lần lũ chim lính lao tới, anh múa khiên, khiên xoáy tạo ra một luồng gió như bão tó gạt chúng đi. Anh vừa múa khiên vừa lia đao (…) lũ chim rớt xuống đất như mùa phát cỏ tranh.”[4, tr.140- 141].

Người đọc càng không thể nào quên hành động dũng cảm, kiên cường của nữ cán bộ cách mạng - Hờ Giang khi cô hiên ngang trước mặt bọn biệt kích Mỹ, ánh mắt như ngàn mũi tên bay về phía lũ giặc bán nước, bất chấp cái chết đang đến gần: “Hờ Giang thì cứ đứng hiên ngang, tay ôm chặt đứa con, đôi môi mím lại và hai con mắt trừng trừng nhìn tên biệt kích”[6,tr.854].

Có thể nói đối với nhân vật anh hùng, nhất là người anh hùng Tây Nguyên thì mọi phẩm chất đều thể hiện qua hành động. Nếu người anh hùng hành động để bảo vệ chính nghĩa, buôn làng thì các nhân vật phản diện tha hóa, cách miêu tả qua hành động cũng giúp bản chất của chúng lộ diện rõ hơn. Ta có thể thấy bản chất háo sắc, đê hèn của chánh tổng Y Sô khi mò vào nhà Hơ Linh để sàm sỡ cô: “hắn đi một vòng lắng nghe động tĩnh (...) Y sô đứng dưới chân cầu thang, cố kiễng chân để ngó vào...không lùi lại, một tay vịn cột lên xuống và hai chân Y Sô rất nhẹ, đặt chân lên cầu thang (...) Y Sô ngồi đó và run mà nhớ lại những câu ca dao trong bản trường ca… “Không, ta không làm như thế” hai bàn tay của hắn chạm vào người Hơ Linh”[2, tr.87]

Bản chất nịnh hót, ôm chân thực dân Pháp của Y Sô lộ rõ khi lũ Pháp ở dưới Đồng Bò bị phát xít Nhật truy lùng đến đường cùng phải chạy đến buôn Thu nhưng hắn vẫn khúm núm, quỳ lụy vì với hắn đã là Tây thì bất kể ai cũng là ông lớn: “Bọn Tây đến gần nhà, Y Sô tươi cười ra ngoài hiên ngồi rồi nhanh chóng chạy xuống cầu thang. Bọn Tây càng đến gần Y Sô càng quỳ lụy.”[3,  tr.74].

Nhà triết học La Mã cổ đại M. Xi-ê-rông từng nói “Mọi phẩm chất của đức hạnh là ở trong hành động”. Câu nói đó càng có ý nghĩa và đúng đắn hơn trong việc xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng. Hành động của nhân vật là căn cứ tốt nhất để làm nổi bật tính cách nhân vật.

2.3. Miêu tả ngôn ngữ nhân vật

Cùng với hành động, ngôn ngữ nhân vật giúp người đọc nhìn nhận, đánh giá và cảm nhận đầy đủ hơn về nhân vật. Mặc dù người Tây Nguyên nói chung và các nhân vật trong tiểu thuyết Y Điêng nói riêng đều ít nói nhưng những màn đối thoại, độc thoại là căn cứ để đánh giá nhân vật. Những nhân vật chính diện, ngôn ngữ được mô tả chuẩn mực với giọng điệu ngợi ca. Nhất là đối với các nhân vật anh hùng, cùng với hành động, ngôn ngữ là tuyên ngôn về lẽ sống của họ. Khi tên chỉ huy biệt kích Mỹ hỏi Hơ Giang có chịu tái hợp với Y Soa hay không, Hơ Giang đã rắn rỏi trả lời: “Lấy chồng ở với chồng cho đến chết. Người chia rượu cho đến khi rượu lạt, đánh chiêng cho đến khi người ta giật tay mới thôi”. Vợ chồng chúng tôi cũng bị người ta cướp giật như kẻ đánh chiêng đó ông ạ!”[6, tr.856]. Câu nói đó cho thấy lòng thủy chung của Hờ Giang đối với Y Soa nhưng bọn biệt kích Mỹ đã dùng tiền bạc, những lời xuyên tạc, bịa đặt để chia rẽ vợ chồng cô.

Hờ Giang trước mũi súng của kẻ thù đã dõng dạc tuyên bố:
“Tôi sẽ không đi đâu, tôi không thể bỏ buôn làng. Nếu hôm nay tôi có chết đã có buôn làng làm chứng. Tôi có tội, các ông bảo tôi làm Việt cộng, tôi tin rằng các ông chưa hiểu Việt Cộng. Các ông hiểu thì tôi đoán chắc rằng các ông sẽ làm như tôi. Hôm nay đạn từ nòng súng các ông đi ra nhằm vào ai, bây giờ chỉ vào thân thể người Ê đê chúng mình thôi, đau lắm chứ.”[6, tr.858].

Từng lời nói của Hờ Giang như những giọt mưa rừng giữa mùa hạ thấm vào lòng đất mẹ, xé lòng của những người Ê Đê còn ở lại, làm thức tỉnh chút lương tri còn sót lại của những kẻ ôm bả vinh hoa của đế quốc Mỹ đã chĩa mũi súng về phía đồng bào mình. Lời nói của Hơ Giang cũng là tiếng lòng của những người Ê Đê, người Tây Nguyên yêu nước bấy giờ.

Trong Ba anh em, lời nói của Y Nguyên được coi như tuyên ngôn và cũng là niềm tự hào về truyền thống bất khuất của người Ê Đê: “Chúng tôi là người chủ của xứ sở này, có văn hiến, có lịch sử, có truyền thống đấu tranh bất khuất để gìn giữ và xây dựng đất nước này. Nếu mà trong cuộc đánh nhau lần này vì lí do nào đó chúng tôi thua trận, đó chỉ là tạm thời. Thời đại sau sẽ sinh ra những người tài giỏi hơn chúng tôi, thì họ sẽ đánh bại chúng bay đem lại cho xứ sở này của của chúng tôi tốt đẹp hơn”[4, tr.244].

Y Điêng đã rất giỏi khi vạch trần bộ mặt xảo trá của Y Sô qua ngôn ngữ của hắn. Nếu trước kia khi Pháp là ông chủ của xứ sở này, hắn đã vênh váo, trịch thượng bằng thứ ngôn ngữ, giọng điệu của kẻ nắm quyền sinh quyền sát trong tay, hắn từ chối lời van xin của ma Y Thoa: “Ông đừng nói nữa. Muộn rồi đó.Mấy tháng, mấy năm trước sao không dạy nó. Việc đến chân rồi, và lại việc quan trên, tôi không có quyền nhúng vào”[2, tr.147]

Khi Y Sô định giở trò đồi bại với Hơ Linh, hắn bị Hơ Linh đạp xuống nhà sànnên ngôn ngữ đầy hằn học, đay nghiến khi nói chuyện với ma Đao chủ buôn Thu: “Còn ngủ với vợ hả, ra mau ta có việc, việc lớn lắm.”; “Nghe này...”; “Làng ta bướng lắm đó, ông làm chủ làng mà không biết dạy bảo họ để họ muốn làm gì cũng được à?”; “Ông bảo tôi say phải không? Tôi không say, tôi tỉnh lắm, tôi uống rượu cha ông của ông à mà ông bảo tôi say?”[2, tr.88-89].

Chính Y Sô là người xúi ma Thin kiện mí con Hơ Linh nhưng khi Ma Thin thua kiện, hắn lật lọng nhằm vơ vét tài sản nhà ma Thin: “Sao đây ông ma Thin?”; “Bởi ông đụng đến cái họ lớn này mà.Phải không ông Ây Lứ? Hôm trước nhiều người đã nhắc là tùy ông mà”[2, tr.255],“Bên đó bàn gì mà lâu thế? Đã xếp đủ hai mươi lăm con bò chưa? Thế bao giờ bên ấy cho chúng tôi đến dắt đây?, “Thế còn cái ché ba cổ và bộ chiêng nữa” [2, tr.260].

Thế nhưng khi thực dân Pháp bị Nhật đảo chính, Y Sô lo sợ cho số phận của mình, hắn nhờ Y Thoa làm sổ sách giả chothì miệng ngọt như đường: “Em Y Thoa hả?”, “Em này”, “Em ạ.”[3, tr.67-68]
Bản chất xu nịnh, đê hèn của Y Sô thể hiện rõ nhất khi hắn nói chuyện với lũ Tây, dù lúc này thực dân Pháp đang bị Nhật lùng bắt không chốn nương thân: “Ông lớn đến sao không báo trước”; “Ông lớn cho phép tôi đánh trống gọi dân làng về.”; “Bẩm quan lớn”; “mời ông lớn lên nhà”[3, tr.74-75]
Và đây là ngôn ngữ của Y Soa- kẻ bị tha hóa vì đồng tiền, ghen tuông, nhỏ nhen: “Nói thiệt với các anh, từ ngày về làng Ma Hơ Giang, không có lúc nào em được thảnh thơi. Các ông du kích bắt vào du kích, các ông kinh tế bắt vào làm kinh tế. Ngay cả vợ em cũng khuyên em đi bộ đội giải phóng, nhưng rồi em ức nhất là có vợ mà không được sống với nhau hạnh phúc. Một tháng bà đi công tác hai ba tuần rồi, em phải giữ con... Em phải rứt bỏ cuộc sống ấy, em đi tìm tự do và thế nào em cũng sẽ trở về làng với một anh lính quốc gia mà”[6, tr.832].

Ngôn ngữ không chỉ là công cụ của tư duy, ngôn ngữ trong tiểu thuyết Y Điêng như một thứ bột màu vẽ nên tính cách, bản chất nhân vật một cách rõ nét.

2.4. Miêu tả tâm lý nhân vật

Xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết không chỉ đơn thuần cho người đọc thấy được ngoại hình, ngôn ngữ, hành động nhân vật mà quan trọng hơn là hơn là nói được phần sâu kín trong tâm hồn con người. Nói như L.N.Tolstoy : “Mục đích chính của nghệ thuật là phát biểu các sự thật về tâm hồn con người, nói lên những bí ẩn mà nó không diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được”. Mặc dù đặc điểm chung của các nhân vật trong văn xuôi Tây Nguyên nói chung ít nói, thiên về hành động, nội tâm không được chú trọng miêu tả nhiều nhưng nó góp phần trong việc thể hiện sinh động và hoàn chỉnh nhân vật.

Trong các nhân vật của mình, Hơ Giang là nhân vật được miêu tả nội tâm rõ nhất nhằm làm nổi bật vẻ đẹp của con người cộng đồng, con người anh hùng của buôn làng. Từ khi còn nhỏ, sau lần gặp chú Ma đoan và các anh bộ đội đêm về khi trời mưa Hờ Giang không ngủ được vì lo cho chú Ma Đoan và các anh bộ đội trong rừng: “Mưa càng to giọt mưa từ cái đuôi mái nhà rơi lộp độp, nghĩ đến chú Ma Đoan và các anh ở ngoài rừng, bụng em se lại. Không biết trời tối thế này các chú và các anh có tìm thấy chòi rẫy cũ của buôn này không”[6, tr.617].

Hờ Giang là người con ưu tú của buôn làng,là bí thư xã nhưng chính chồng của mình theo biệt kích nên khi biết được tin này, Hờ Giang nghe như sét đánh ngang tai, tâm trạng rối bời:“Suốt đêm Hờ Giang không tài nào chợp mắt... Nhìn con côi cút chị lại khóc... Càng nghĩ về con chị lại càng khóc, từ khi biết tin chồng chị làm biệt kích Mỹ mới có một hôm mà người chị gầy đi nhiều. Cái mặt tròn trĩnh của hôm qua nay không còn, nó hốc hác hẳn, chị già đi nhiều.”[6, tr.843]

Không chỉ nhân vật anh hùng, nhân vật chính diện được miêu tả tâm lí mà ngay cả nhân vật phản diện như Y Sô cũng có đời sống nội tâm đầy bi kịch. Y Sô lo lắng đến mất ăn mất ngủ khi Y Thoa mãn hạn tù về làng:“Sau cái buổi lễ đón trống về nhà, Y Sô có chút ít thay đổi, mọi người thấy y như cái trống bị chùng hẳn hoi...Ý tưởng cho Y Thoa đi tù, vu cho mẹ con Hơ Linh có ma lai và đem bán cho một làng ở xa xôi, tưởng là ổn cả. Cái chuyện y phạm vào tập quán cũng không còn tiếng tăm gì nữa. Y Sô ngại nhất với tình hình trời đất gần đây sẽ bị vợ chồng Hơ Linh và Y Thoa tố cáo, luật dân gian sẽ trừng trị y.”[3, tr.32- 33].

Hắn càng lo sợ hơn khi ông Tây– cái sợi dây mà hắn bám víu lâu nay để cai trị dân làng đã không còn nữa khi Nhật hất cẳng Pháp khỏi Đông Dương:
“Y Sô cúi mặt suy nghĩ, cái sợi dây mình níu lâu nay, đã không còn nữa. Từ hôm đó, Y sô ngồi lì trong nhà mình. Hết đi ra đi vào lại lên bộ phản nằm nghỉ, nhưng nằm đâu có yên, đôi mắt của y hết ngó trần nhà, lại ngó các cột to, nhìn chiêng treo ché buộc, trống to, thế là nước mắt cứ chảy ra”[3, tr.47].

Có thể thấy bằng việc miêu tả nội tâm, Y Điêng đã góp phần làm lộ rõ bản chất tham lam, háo sắc, tráo trở nhưng hèn nhát của Y Sô nhưng ngược lại nó lại tô đậm vẻ đẹp cho nhân vật anh hùng tiêu biểu cho buôn làng, con người Tây Nguyên.

Kết luận

“Văn học là nhân học” nhận định của Gorky đã nhấn mạnh vai trò của con người trong tác phẩm văn học. Con người là nơi bắt đầu và cũng là đích đến của nghệ thuật. Mặc dù nhân vật trong văn xuôi Tây Nguyên nói chung và tiểu thuyết Y Điêng nói riêng chưa có nhiều những nhân vật, tính cách điển hình để trở thành tâm điểm, soi chiếu cho văn học dân tộc nhưng nó đã góp thêm một diện mạo mới làm nên sự phong phú, độc đáo cho nền văn học. Tiểu thuyết Y Điêng không có những nhân vật điển hình, nhiều nhân vật còn giống nhau về cách miêu tả miêu tả ngoại hình, nội tâm, ngôn ngữ và hành động nhưng suy cho cùng đó là do sự chi phối của quan niệm, cách cảm, cách nghĩ của tác giả về con người và cuộc đời. Tuy nhiên đó chính là điểm làm nên khác biệt cho nhân vật của Y Điêng so với các tác giả văn xuôi khác.

Đọc tiểu thuyết Y Điêng ta ấn tượng sâu sắc về những con người Tây Nguyên đó là những con người sống hết mình vì cộng đồng, những con người nhân ái nghĩa tình, giàu tình cảm, dù phải chịu số phận bất hạnh nhưng họ rất giàu lòng yêu thương con người, giàu chất nghệ sĩ- chất men giúp họ lạc quan, yêu đời để vượt qua số phận, hoàn cảnh khắc nghiệt. Với những biện pháp nghệ thuật khắc họa khá quen thuộc: miêu tả ngoại hình, hành động, ngôn ngữ và tâm lý nhân vật Y Điêng đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp từ ngoại hình đến tâm hồn của con người Tây Nguyên. Dù có những nhân vật phản diện, tha hóa nhưng không vì thế mà người đọc có ấn tượng xấu về con người Tây Nguyên mà ngược lại tỉ lệ ít ỏi của kiểu nhân vật này như một sự khẳng định không bàn cãi về con người của xứ đất đỏ bazan đó là những con người chất phác, nghĩa tìnhnồng thắm như màu đất đỏ không phai, giàu chất nghệ sĩ như bát rượu cần sóng sánh làm say đắm lòng người tạo nên vẻ đẹp đặc trưng của con người nơi đây. Họ như những bông hoa kơ tinh, hoa aring, như những cây lim, cây trắc đẹp đẽ, vững chãi giữa đại ngàn Tây Nguyên.

Tài liệu tham khảo
1. Jacques Dournes (2002), Rừng, đàn bà, điên loạn, Hội nhà văn, Hà Nội.
2. Y Điêng (1994), Chuyện trên bờ sông Hinh,Tập 1, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắc Lắc.
3. Y Điêng (1994), Chuyện trên bờ sông Hinh,Tập 2, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắc Lắc.
4. Y Điêng(1996), Ba anh em, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội.
5. Y Điêng (2000), Trung đội người Bahnar, NXB Văn hóa nghệ thuật Đắc Lắc.
6. Y Điêng (2015), Chuyện trên bờ Sông Hinh. Hờ Giang, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
7. Văn Công Hùng, “Già làng bên bờ Sông Hinh”, http://vanconghung.vnweblogs.com/, 06/07/2007.
8. Phương Lựu (chủ biên 1985), Lý luận văn học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
9. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Thúy (2012), Một số đặc điểm nổi bật trong sáng tác của Y Điêng, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Đại học Thái Nguyên.
11. Nguyễn Thị Thu Trang (2004), Sách văn học Phú Yên thế kỉ XX, NXB Văn học TPHC.
12. Nhiều tác giả (1999), Từ điển Thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 

Phan Đình Huy
Cao học Văn K18
Nguồn: Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học Ngữ văn 2017


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét