Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp là một hướng đi mới, hiệu quả: giúp giải quyết tình trạng quá tải, trùng lặp kiến thức gây lãng phí thời gian, đồng thời phát huy vai trò chủ thể tiếp nhận, chủ thể sáng tạo và phát triển tư duy tổng hợp cho học sinh (HS). Dạy học hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt cũng hứa hẹn nhiều thành công khi đi theo định hướng này. Và để đảm bảo hiệu quả tích hợp, theo chúng tôi, cần chú ý các yêu cầu cơ bản sau đây:
1. Tích hợp một cách đồng bộ ở tất cả các khâu của quá trình dạy học
Phần lớn giáo viên (GV) khi thực hiện định hướng tích hợp thường chỉ quan tâm đến khâu dạy học bài mới mà không mấy chú ý đến các khâu còn lại. Theo chúng tôi, để dạy học hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt đạt hiệu quả, GV phải sử dụng tích hợp ở tất cả các khâu trong quá trình dạy học: từ kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới cho đến khâu dạy học bài mới.
1.1 Kiểm tra bài cũ là thao tác đầu tiên trong chuỗi hoạt động, nhằm kiểm tra chất lượng học tập của HS. Đây là công việc thường xuyên và cần thiết nhằm đánh giá kết quả nắm kiến thức cũ trước khi dạy bài mới, giúp GV nhanh chóng nắm bắt tình hình học tập, mức độ tiếp thu và trình độ của HS. Dùng những câu hỏi mang tính tích hợp để kiểm tra bài cũ buộc HS phải huy động nhiều bộ phận kiến thức liên quan để trả lời, khi đó GV không chỉ nắm được mức độ hiểu bài ở tiết học trước mà còn đánh giá trình độ tiếng Việt, trình độ văn hóa nói chung của HS; tư duy tổng hợp, khái quát của các em cũng được rèn luyện.
Đối với hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt, do nội dung bài học mang tính tích hợp cao nên câu hỏi kiểm tra bài cũ cũng tất yếu phải thể hiện tính tích hợp đó. Chẳng hạn khi kiểm tra bài Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (Ngữ văn 10, tập 1), GV có thể đưa ra câu hỏi: Em hãy nêu những đặc điểm của ngôn ngữ nói / ngôn ngữ viết? Lấy ví dụ minh họa? Khi đó HS phải dùng kiến thức mang tính tích hợp về tiếng Việt trong nội dung bài học trước đó để trả lời (đặc điểm về ngữ điệu, từ ngữ, câu văn…). Đồng thời phải vận dụng vốn kinh nghiệm giao tiếp hằng ngày để lấy dẫn chứng cho ngôn ngữ nói và vốn hiểu biết về các bộ môn đã học để minh họa cho ngôn ngữ viết.
Để có được những câu hỏi mang tính tích hợp cao trong khâu kiểm tra bài cũ, GV cần đầu tư công sức, thời gian thích đáng ngay từ lúc bắt đầu soạn giáo án. Hệ thống câu hỏi đó cần được cải tiến, biên soạn lại qua mỗi lớp học, năm học. Có như vậy việc kiểm tra mới góp phần nâng cao hiệu quả dạy và học của thầy và trò.
1.2 Giới thiệu bài: là một khâu khá quan trọng, mở đầu cho các thao tác dạy học bài mới của GV. Giới thiệu bài một cách sinh động, hấp dẫn có thể gây sự chú ý và hứng thú học tập cho HS.
GV có thể vào bài mới bằng cách nêu lên một số hiện tượng ngôn ngữ, đời sống liên quan đến nội dung cần học để kích thích trí tò mò và tạo tâm thế đón chờ bài học cho các em. Và những tình huống như vậy thường chứa đựng một phức hợp vấn đề - nghĩa là chúng có thể được khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn, dạy bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập 2), GV có thể vào bài bằng cách cho HS làm một bài kiểm tra ngắn về những hình thức sử dụng đúng (chính tả, từ vựng, ngữ pháp…). HS phải huy động một cách tổng hợp những kiến thức, kĩ năng tiếng Việt đã tích lũy, rèn luyện để giải bài tập. Trên cơ sở giải bài tập của HS, GV dẫn nhập vào bài mới. GV cũng có thể đặt ra một vài câu hỏi về những kiến thức tiếng Việt hay văn học mà các em đã học, liên quan trực tiếp với nội dung bài mới để đánh thức trí nhớ của HS, làm tiền đề cho việc dạy học.
Sử dụng tích hợp ngay từ khâu vào bài sẽ giúp khởi động bộ máy tư duy của HS, buộc các em phải ý thức rõ đối tượng mình đang nhận thức và xác định hướng huy động kiến thức đã có để giải quyết bài học mới.
1.3 Dạy bài mới: Do các bài trong hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt được biên soạn theo hướng tích hợp kiến thức một cách cao độ nên trong quá trình dạy học GV phải hướng dẫn HS huy động tổng lực của mình ở nhiều bộ môn, phân môn khác nhau để chiếm lĩnh các nội dung cơ bản trong bài.
GV cần căn cứ vào trình độ tiếng Việt, trình độ văn học, văn hóa, lịch sử, xã hội… của HS, căn cứ vào mục tiêu bài học để lựa chọn nội dung tích hợp hợp lí, làm rõ vấn đề đang dạy trong khuôn khổ thời lượng cho phép. HS trung học phổ thông (THPT) có ít nhất 10 năm được học tập ở nhà trường, các em đã có một khối lượng kiến thức tương đối phong phú. Đây sẽ là một cơ sở thuận lợi để GV dạy các bài được đánh giá là khó dạy, khó học của chương trình Tiếng Việt THPT.
Cũng trong bài Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập 2), khi dạy những yêu cầu để sử dụng hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao, GV nhất thiết phải tích hợp với kiến thức tu từ đã học ở các lớp trước, cấp trước. Để đi đến kết luận: Sử dụng các biện pháp tu từ đúng lúc, đúng chỗ là một trong những cách thức đem lại hiệu quả giao tiếp cao GV nên đưa ra nhiều ngữ liệu có sử dụng các biện pháp ẩn dụ, so sánh, phép điệp, phép đối…để HS phân tích và rút ra nhận xét. Nghĩa là, trong quá trình dạy học, các thầy cô phải tích hợp theo trục dọc, giúp HS hồi cố, nhớ lại những kiến thức tu từ đã học, tạo điều kiện cho việc hình thành tri thức mới.
GV cần phải tìm những điểm đồng quy trong nội dung các phân môn, môn học khác nhau, khai thác những kiến thức tiếng Việt mà HS đã học để xây dựng những tình huống tích hợp, bắt HS huy động kiến thức, kĩ năng tổng hợp để giải quyết vấn đề, đồng thời tránh được những sự trùng lặp không cần thiết. Có vận dụng phương hướng tích hợp thì GV mới có thể truyền đạt đầy đủ những nội dung kiến thức đa dạng, phức tạp được trình bày trong hệ thống bài Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt.
2. Kết hợp hài hòa, đồng bộ hai hướng tích hợp
Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt là hợp phần thể hiện rõ nhất tính khoa học của việc dạy học tiếng Việt ở THPT. Bởi vậy, khi dạy hợp phần này cần chú ý sử dụng hợp lí, hài hòa hai hướng tích hợp để đảm bảo đặc điểm và mục tiêu dạy học của hợp phần.
Như chúng ta đã biết, có hai hướng tích hợp chính là tích hợp ngang (tích hợp liên môn) và tích hợp dọc (tích hợp nội bộ), mỗi loại có một đặc trưng và mang lại một hiệu quả riêng đối với quá trình dạy học. Nếu tích hợp ngang chủ yếu khai thác mối quan hệ của các phân môn, các môn học khác nhau trong một bài học, một thời điểm để giúp HS hiểu sâu, rộng về vấn đề thì tích hợp dọc lại chủ yếu tích hợp trong nội bộ phân môn Tiếng Việt. Một vấn đề tiếng Việt đang học sẽ có mối liên hệ với những kiến thức tiếng Việt đã học ở các lớp dưới và cả những kiến thức, kĩ năng sẽ học ở các lớp trên. Có thể quan niệm bài học hôm nay là một sự kế thừa, phát triển những bài học trước đó, đồng thời lại tạo điều kiện cho những bài học tiếp theo. Nhờ vậy, HS sẽ nắm kiến thức một cách có hệ thống. Tùy thuộc vào từng nội dung dạy học mà GV phải lựa chọn và vận dụng phương hướng tích hợp cho hợp lý.
Dạy Đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (Ngữ văn 10, tập 1), GV có thể dùng tích hợp ngang để chọn ngữ liệu, nên lấy một văn bản văn học, văn bản lịch sử, khoa học làm ngữ liệu để phân tích đặc điểm của ngôn ngữ viết. Lấy ngữ liệu từ văn bản đã học sẽ gợi nhắc cho HS về văn bản ấy, môn học ấy, đồng thời giảm bớt thời gian và công sức cho thao tác phân tích ngữ liệu. Dạy phần tính chung của ngôn ngữ trong bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn 11, tập 1), GV có thể dùng hướng tích hợp dọc để huy động những kiến thức về ngữ âm, ngữ nghĩa, ngữ pháp… tiếng Việt nhằm làm rõ nội dung bài học.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, hai hướng tích hợp này thường không tách biệt mà luôn đi liền với nhau trong quá trình dạy học một bài nào đó. Hiếm khi thực hiện một bài học nào mà GV chỉ sử dụng duy nhất hướng tích hợp ngang hay tích hợp dọc. Chẳng hạn, khi dạy Những yêu cầu sử dụng tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập 2), GV có thể dùng tích hợp ngang để đưa ra ngữ liệu, kết hợp với tích hợp dọc khi phân tích ngữ liệu và khái quát thành các yêu cầu sử dụng tiếng Việt sao cho đúng và hay. Hai hướng tích hợp này có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau cùng làm nổi bật nội dung của bài, đồng thời giúp HS hoạt động tích cực hơn, liên tục vận dụng, củng cố kiến thức đã học.
3. Chú trọng hệ thống câu hỏi vận dụng kiến thức tổng hợp, liên ngành
Trong quá trình dạy học, hệ thống câu hỏi có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng cho HS. Sự phát triển của năng lực nhận thức của HS diễn ra trong quá trình tìm kiếm lời giải đáp cho từng câu hỏi nảy nở của họ, tìm cách giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập [10;9]. Đưa ra hệ thống câu hỏi chính là bước hiện thực hóa nội dung bài học thành họat động của HS. Mỗi câu hỏi đặt ra một yêu cầu, một nhiệm vụ cụ thể buộc HS phải tìm hiểu SGK, tài liệu tham khảo, vận dụng kiến thức, suy nghĩ và tìm câu trả lời.
Lối dạy học cũ truyền đạt kiến thức có sẵn theo phương thức thầy giảng trò nghe không thể đem lại hiệu quả học tập tốt. Thay vào đó, bằng hệ thống câu hỏi, GV buộc HS trao đổi, thảo luận về vấn đề đang học, kích thích hoạt động lĩnh hội và phát triển tư duy. Khi đó kiến thức HS tiếp thu mới thực sự vững chắc, HS sẽ nhớ lâu, hiểu kĩ vấn đề.
Khác với phân môn Văn học, các câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị bài thường được nêu ra phía sau văn bản, hỗ trợ cho công việc dạy học của GV thì ở phân môn Tiếng Việt nói chung và hợp phầnLý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt nói riêng, SGK không soạn sẵn câu hỏi. Do vậy, GV trong quá trình soạn giảng phải tìm tòi và đặt ra hệ thống câu hỏi phù hợp để dẫn dắt HS tìm hiểu nội dung bài học. Đặt được một hệ thống câu hỏi tốt sẽ giúp HS nắm bài tốt hơn; thông qua việc trả lời các câu hỏi, tư duy và cách diễn đạt kết quả tư duy của HS cũng được rèn luyện. Tổng kết quá trình giáo dục của thế giới, UNESCO khẳng định: “Nền giáo dục phải đào tạo được nhiều lớp người tích cực, tự giác, sáng tạo và có phẩm chất tư duy tốt mà hệ thống câu hỏi do người thầy đặt ra là phương thức có giá trị góp phần bồi dưỡng tư duy cho HS”.
Do đặc tính khái quát của hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt nên bên cạnh những câu hỏi phát hiện kiến thức trong SGK, GV phải chú ý đặt ra những câu hỏi mang tính tích hợp kiến thức. Những câu hỏi này chủ yếu giúp HS nhớ lại những kiến thức liên môn đã học, làm tiền đề cho việc khái quát, tổng hợp kiến thức mới. Giờ học Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt nêu lên những nhận định chung, những quy luật về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng trên cơ sở đúc kết những kiến thức nền tảng mà HS đã tiếp thu từ các lớp trước. Do vậy, trong giờ học, bằng cách sử dụng những câu hỏi yêu cầu tích hợp kiến thức đã có để trả lời, GV sẽ tiến hành dạy bài mới mà không cần phải tốn quá nhiều thời gian, đồng thời lại rèn luyện cho HS tư duy tổng hợp, giúp các em có cái nhìn toàn diện, bao quát và thói quen vận dụng tích hợp những gì đã học tập để giải quyết một vấn đề.
Ngoài ra, những bài học Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt rất trừu tượng vì đây là lý thuyết thuần túy. Do đó, việc yêu cầu HS tìm hiểu ngữ liệu từ đời sống hoặc từ văn bản đọc hiểu sẽ góp phần giảm bớt sự khô khan, trừu tượng cho các bài học này. Có thể nói, việc tăng cường câu hỏi tích hợp kiến thức liên môn góp phần đem lại không khí sôi nổi, sinh động hơn cho giờ học.
Để có một hệ thống câu hỏi tích hợp hay, hợp lí trong giờ học Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt, GV phải chuẩn bị chu đáo từ khâu soạn giáo án: phải dự kiến đặt những câu hỏi nào? Nêu câu hỏi vào lúc nào? HS sẽ trả lời ra sao? Đáp án là gì?...Từ việc tìm hiểu nội dung SGK và mục tiêu cụ thể của bài học mà GV lựa chọn nội dung, phương pháp và lượng kiến thức đặt ra trong mỗi câu hỏi. Nghệ thuật đặt câu hỏi là điều hết sức quan trọng để phát huy hiệu quả dạy học. Câu hỏi tích hợp phải mang tính vừa sức đối với HS, tạo được sự hứng thú về nhận thức, kích thích sự tìm tòi sáng tạo của HS, đồng thời phải sắp xếp theo một trình tự hợp lí, phù hợp với logic bài học và logic nhận thức của người học. Đây không phải là một công việc dễ dàng, nó đòi hỏi năng lực sư phạm và trình độ chuyên môn của GV.
Hệ thống câu hỏi tích hợp sẽ góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học, thay thế lối dạy học cũ thiếu hiệu quả bằng một lối học mới hiệu quả hơn trên tinh thần phát huy vai trò làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của HS. Các câu hỏi này phải vừa chú ý làm rõ những tri thức, kĩ năng đặc thù của phân môn, vừa khai thác những yếu tố chung giữa các phân môn, các môn học khác để hình thành những tri thức tổng hợp cho HS. Đây là điều kiện cơ bản và quan trọng để dạy học theo hướng tích hợp đạt hiệu quả cao.
4. Kết hợp đồng bộ với định hướng giao tiếp và định hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh
Tích hợp là một trong ba định hướng cơ bản của dạy học nói chung và dạy học hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt nói riêng. Do vậy, để dạy học diễn ra có hiệu quả thì khi giảng dạy, GV phải biết kết hợp đồng bộ định hướng tích hợp với hai định hướng còn lại là định hướng giao tiếp và tích cực hóa hoạt động của HS.
4.1. Hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt cung cấp những kiến thức cơ bản, khái quát, mang tính quy luật về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng. Mục đích cuối cùng của nó là hướng tới nâng cao khả năng sử dụng thành thạo tiếng Việt cho HS. Dạy học tiếng Việt, theo Lê A là dạy một hoạt động bằng một hoạt động. Do đó, định hướng giao tiếp cũng là một định hướng quan trọng của dạy học Tiếng Việt ở nhà trường phổ thông. Người dạy cần chú ý đến vai trò công cụ giao tiếp, công cụ tư duy của tiếng Việt trong quá trình dạy học.
Không nên chỉ xem xét ngôn ngữ theo quan điểm cấu trúc - hệ thống, xem nó như những đơn vị tĩnh tại, biệt lập không biến đổi mà còn phải thấy sự vận động, thay đổi của nó trên bình diện chức năng. Qua hoàn cảnh sử dụng cụ thể, ngôn ngữ luôn có sự chuyển hóa, tăng cường hoặc giảm bớt đặc tính vốn có của nó trong hệ thống ngôn ngữ. Dạy học Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việtcũng vậy, phải xem xét các vấn đề lý thuyết này trong nhiều tình huống sử dụng, gắn liền với hoạt động hành chức của mình. Có như thế thì HS mới thấy được bản chất thực sự của ngôn ngữ và sự giàu đẹp, biến hóa của tiếng Việt.
Theo quan điểm giao tiếp, rất cần thiết khi GV đưa các tình huống nói năng thực tế vào làm ngữ liệu để phân tích, chứng minh cho lý thuyết tiếng Việt. Mọi khái niệm, quy luật của ngôn ngữ đều bắt nguồn từ việc phân tích, khái quát thực tế giao tiếp. Và cũng rất cần thiết khi yêu cầu HS phải vận dụng những điều đã học vào trong giao tiếp hằng ngày để vừa củng cố kiến thức vừa rèn luyện, nâng cao kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Chỉ khi dạy học tích hợp gắn chặt với quan điểm giao tiếp thì hoạt động dạy và học mới đạt hiệu quả thực sự và thực hiện được mục tiêu môn học.
4.2.Trong dạy học hiện đại, HS được xem là trung tâm của quá trình dạy học, là nhân tố quan trọng nhất, ảnh hưởng đến sự tồn tại và giá trị của các nhân tố khác. Mọi họat động trong giờ học đều phải xuất phát từ HS, cho HS và bằng HS. Do vậy, dạy học hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt theo hướng tích hợp cũng phải đảm bảo định hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. HS phải là chủ thể của hoạt động học tập, tự đi đến đích nhằm chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo thông qua việc giải quyết các tình huống có vấn đề mà GV nêu ra.
Các bài học trong hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt thuần túy lý thuyết, nội dung bài học dài và khó nên phương pháp dạy học chủ yếu được sử dụng là thông báo, giải thích. Những kiến thức trong bài được GV trực tiếp thông báo cho HS, sau đó GV giải thích và đưa ra ví dụ minh họa còn HS sẽ lắng nghe và lĩnh hội. Tuy nhiên trong những giờ học này, GV cũng phải chú ý phát huy vai trò chủ thể của HS.
Thầy cô, bằng kĩ năng sư phạm của mình, tổ chức cho HS tích cực hoạt động trong giờ học, tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài, ôn cũ - học mới trong khuôn khổ thời gian cho phép. GV có thể thực hiện được điều này nhờ sự hỗ trợ của hệ thống câu hỏi tích hợp dùng xen kẽ trong lời thông báo, giải thích, minh họa của mình. Kiến thức mà GV trình bày, những câu hỏi tích hợp mà GV đặt ra phải vừa sức với HS, hướng tới số đông HS trong lớp chứ không được tập trung vào một bộ phận HS khá - giỏi, sao cho tất cả HS đều là trung tâm của lớp học, đều hứng thú tìm tòi và phát hiện tri thức. GV phải có cách thức tổ chức dạy học hợp phần được đánh giá là khó và khô này sao cho nó trở nên sinh động, hấp dẫn đối với học trò của mình.
Định hướng giao tiếp và định hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS có vai trò quan trọng trong dạy học tiếng Việt, đặc biệt là dạy học các bài thuộc hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt. Phối hợp tốt hai định hướng trên cùng với định hướng tích hợp trong dạy học sẽ nâng cao hiệu quả dạy và học hợp phần này.
5. Bám sát mục tiêu bài học, lựa chọn nội dung tích hợp hợp lý, tránh lạm dụng
Bất cứ bài học nào cũng phải thực hiện những mục tiêu nhất định. Mục tiêu bài học vừa là cái đích phải đạt, vừa là kim chỉ nam cho hoạt động dạy học. Một trong những yêu cầu quan trọng của quá trình dạy học là phải bám sát mục tiêu của môn học, của từng bài để từ đó xác định kiến thức và kĩ năng cần hình thành và phát triển ở người học. Dạy học hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt theo định hướng tích hợp cũng phải tuân thủ nguyên tắc đó.
Dạy học tích hợp đem lại nhiều hiệu quả tích cực như tiết kiệm thời gian, giúp nội dung bài giảng trở nên sâu sắc, tư duy khái quát, tổng hợp của HS được rèn luyện… Đối với những kiến thức học sinh đã được trang bị ở các bài học trước hoặc bài học thuộc các phân môn khác, GV chỉ cần gợi nhắc chứ không cần hướng dẫn HS tìm hiểu quá chi tiết gây sự trùng lặp không cần thiết. Đối với những kiến thức tuy là cũ nhưng là kiến thức trọng tâm của bài học hoặc HS có thể đã quên thì GV nên nhắc lại, huy động lại để giúp HS có điều kiện so sánh, liên hệ và hiểu sâu sắc về vấn đề đang học.
Dạy về tính chung của ngôn ngữ trong bài Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Ngữ văn 11, tập 1) mà không tích hợp với những bộ phận kiến thức liên quan về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp mà HS đã học từ những lớp trước thì GV sẽ không thực hiện được mục tiêu bài học trong thời lượng quy định. Phần kiến thức này, SGK trình bày khá tinh giản nhưng để HS hiểu rõ vấn đề, GV khi dạy phải dùng một khối lượng lớn kiến thức Ngôn ngữ học, Việt ngữ học giải thích, minh họa… Các yếu tố chung của ngôn ngữ bao gồm hệ thống các đơn vị, các quy tắc, các chuẩn mực xác định về ngữ âm, chữ viết, từ vựng và ngữ pháp. Những đơn vị ấy là gì? Các quy tắc cần thực hiện như thế nào?… HS đã được trang bị từ Tiểu học đến THCS, GV khi dạy cần phải tích hợp lại. Đây cũng là cơ hội để GV Ngữ văn có thể hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về tiếng Việt cho HS của mình.
Như vậy, nếu biết sử dụng hợp lí thì bản thân phương pháp tích hợp đã là một sự lựa chọn rất tốt để dạy một khối lượng lớn kiến thức mang tính trừu tượng, khái quát của các bài học thuộc hợp phần Lý thuyết chung về ngôn ngữ và tiếng Việt.
Tuy nhiên, nội dung tích hợp phải được GV sàng lọc kĩ, phải phù hợp và bám sát mục tiêu của từng bài học. Khâu đầu tiên, quan trọng trong thiết kế bài học là phải xác định được nội dung và mục tiêu dạy học. Khi tổ chức dạy học theo hướng tích hợp GV cần lựa chọn phương pháp phù hợp, xác định nội dung trọng tâm, có cách thức hợp lý sao cho chắt lọc được kiến thức và rút ngắn được thời gian học tập mà vẫn đạt được mục tiêu dạy học. Đây không phải là một việc đơn giản và GV nào cũng thực hiện thành công.
Nhiều GV khi vận dụng con đường tích hợp để dạy học thường quá sa đà vào việc giảng giải những nội dung kiến thức liên quan từ các môn học khác khiến cho nội dung dạy học trở nên lan man, dàn trải, không thực hiện được mục tiêu dạy học. Nên nhớ việc huy động những kiến thức thuộc các hợp phần khác, phân môn khác cũng là để soi sáng, làm nổi bật kiến thức đang học mà thôi. Mỗi tiết học trên lớp chỉ có 45 phút. Ngoài hoạt động giảng bài mới thì GV cũng phải tốn không ít thời gian cho các khâu ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, củng cố, dặn dò HS hay xử lý những tình huống sư phạm xảy ra trong giờ học… Do đó, phải tích hợp ở đâu, chỗ nào chỉ nên giới thiệu khái quát trên cơ sở những kiến thức cũ HS đã biết, chỗ nào phải phân tích kĩ, mở rộng với những kiến thức liên quan… phải được GV cân nhắc, tính toán.
Dạy bài Khái quát lịch sử tiếng Việt (Ngữ văn 10, tập 1) không thể không vận dụng những kiến thức về lịch sử, địa lý để lí giải, cắt nghĩa nguồn gốc, quan hệ họ hàng cũng như sự phát triển của tiếng Việt qua từng thời kì. Tuy nhiên, GV cũng phải giảng giải trong một chừng mực nhất định, không thể biến giờ học Tiếng Việt thành giờ học Lịch sử, Địa lý. Dạy học Đặc điểm loại hình tiếng Việt (Ngữ văn 11, tập 2), GV phải tích hợp với kiến thức về một số ngoại ngữ liên quan nhưng cũng không thể quá sa đà. Những kiến thức tích hợp kia chỉ là phương tiện để GV làm rõ nội dung bài học, thực hiện mục tiêu dạy học chứ không phải là đích đến của GV và HS.
Nói chung luôn bám sát mục tiêu bài học và lựa chọn nội dung tích hợp sao cho phù hợp, tránh lạm dụng là yêu cầu quan trọng nhất khi dạy học theo định hướng tích hợp. Tích hợp đem lại hiệu quả cao cho quá trình dạy học nhưng nếu tích hợp không đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ phản tác dụng, làm sai lệch mục tiêu hoặc dẫn đến tình trạng không kịp giờ, không thực hiện được hết ý đồ sư phạm của GV.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A, Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán, Phương pháp dạy học tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2009.
2. Nguyễn Văn Đường, Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc THCS, 2002
3. Phạm Minh Hạc , Phương pháp tiếp cận hoạt động – nhân cách và lí luận chung về phương pháp dạy học, Nghiên cứu giáo dục, số 173, 1986.
4. Nguyễn Kỳ (chủ biên), Phương pháp giáo dục tích cực lấy người học làm trung tâm, NXB Giáo dục, 1995.
5. Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc -1967
5. Trần Thị Diệu Nữ, Dạy học Tiếng Việt theo quan điểm tích hợp, Báo cáo khoa học, khoa Ngữ Văn, ĐH Quy Nhơn, 2007.
6. Phan Thiều, Giảng dạy từ ngữ ở nhà trường phổ thông (1983), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Đỗ Ngọc Thống, Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT, NXB Giáo dục, 2006.
Nguyễn Thị Hương Lài
Bài đã đăng trên
Bài đã đăng trên
Kỉ yếu Nghiên cứu khoa học sinh viên khoa Ngữ Văn, ĐH Quy Nhơn năm 2014
Tạp chí Dạy và học ngày nay số tháng 11/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét