1 1. Kết cấu
1.1.
Khái niệm kết cấu
Kết cấu có nghĩa là “thắt buộc lại với nhau, là xây đắp,
gây dựng”. Trên ý nghĩa đó kết cấu đã trở thành một thuật ngữ chuyên môn của
ngành kiến trúc, hội hoạ. Trong lĩnh vực văn chương, khi nói đến xây dựng tác
phẩm, xây dựng nhân vật, xây dựng cốt truyện, xây dựng cấu tứ trong thơ thì người
ta đã xem xét tác phẩm văn học như một công trình kiến trúc. Vì vậy, từ một thuật
ngữ vay mượn của chuyên nghành khác, kết cấu đã trở thành thuật ngữ của văn học.
1.2.
Chức năng của kết cấu
Trước hết, kết cấu có nhiệm vụ góp phần thể hiện chủ đề và
tư tưởng của tác phẩm. Trong lao động sáng tạo văn học, có thể coi chủ đề tư tưởng
là mục tiêu nhằm hướng tới của nhà văn trong quá trình phát hiện và xây dựng kết
cấu.
Ngoài ra, kết cấu còn có nhiệm vụ tổ chức hệ thống các tính
cách nhân vật, sự kiện, các biến cố, hình ảnh, cảm xúc... làm cho những yếu tố
đó gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại ngay từ bên trong tác phẩm, triển khai, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác
giả; tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ.
Trong đời
sống văn học, đôi khi có người cho rằng một số tác phẩm có chủ đề tư tưởng tốt
nhưng tác phẩm vẫn chưa được cảm nhận như một chỉnh thể nghệ thuật. Ðiều này có
thể do nhiều nguyên nhân nhưng một phần quan trọng là do kết cấu.
1.3.
Một số hình thức kết
cấu trong tác phẩm văn học
Những hình thức kết cấu trong tác phẩm văn học rất phong
phú và đa dạng. Nó có thể chịu sự qui định của thể loại (kết cấu tác phẩm tự sự
và kịch với kết cấu tác phẩm trữ tình) của từng giai đoạn lịch sử khác nhau (có
những hình thức kết cấu chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhưng sau đó lại
bị loại bỏ hoặc ít sử dụng và thay vào đó là một kết cấu mới phù hợp với giai
đoạn lịch sử mới)... Vì vậy, khó có thể xác định những hình thức kết cấu nếu
thoát li thực tế sáng tác. Tuy nhiên, ở đây có thể tìm hiểu một số hình thức kết
cấu đã từng xuất hiện trong lịch sử văn học và đã tạo nên nhiều tác phẩm có giá
trị:
-
Kết cấu theo trình tự thời
gian.
-
Kết cấu theo hai tuyến
nhân vật đối lập.
-
Kết cấu đa tuyến.
-
Kết cấu tâm lí.
Có thể
nói đến nhiều hình thức kết cấu khác nhau và nhà văn khi xây dựng tác phẩm, lựa
chọn kết cấu nào bao giờ cũng nhằm nâng cao sức biểu hiện của chủ đề tư tưởng,
tăng cường sức tác động thẩm mĩ của tác phẩm đối với người đọc. Các hình thức kết
cấu dù phong phú và đa dạng cũng chỉ là hữu hạn trong khi thực tế sáng tác thì
vô hạn. Trong từng tác phẩm, nhà văn có thể vận dụng nhiều hình thức kết cấu
khác nhau với sự sáng tạo nghệ thuật. Vì vậy, không thể qui những tác phẩm cụ
thể vào một dạng kết cấu riêng biệt nào mà cần phải xem xét tác động nghệ thuật
của kết cấu đối với người đọc cũng như chức năng cụ thể của nó trong việc thể
hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm
2 2. Kết cấu của thể loại ngâm khúc
So với
các thể loại khác, ngâm khúc có một kiểu kết cấu riêng và nhìn chung các tác phẩm
ngâm khúc đều có một kết cấu giống nhau. Tác phẩm ngâm khúc chỉ có duy nhất một
chủ thể trữ tình tự bạch tâm trạng mình, tự phô diễn dòng ý thức đang vận động
trong tâm tư để dẫn đến một sự cảm nhận mới về cuộc sống. Các nhân vật trữ tình
đều từ không gian thực tại vắng vẻ và tù túng bộc lộ tâm trạng đau buồn, cô đơn
của mình. Tâm trạng cô đơn, đau buồn của nhân vật có thể đã diễn ra trong nhiều
thời gian nhưng thường là từ quá khứ trở về hiện tại, rồi từ hiện tại mơ ước đến
tương lai, đôi khi theo chiều ngược lại, hoặc đồng hiện trong dòng nội tâm nhân
vật. Quá khứ thường gắn với hạnh phúc, hiện tại đi cùng khổ đau, còn tương lai
chỉ là mộng ước mong manh, xa vời.
Có thể
nói, kết cấu chủ đạo của thể loại ngâm khúc là kết cấu theo ba chiều thời gian
mang tính đồng hiện.
Khảo
sát một tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ
ngâm ta có thể thấy, toàn bộ khúc ngâm là sự giãi bày cảm xúc của người vợ
có chồng đi lính xa nhà. Tác phẩm mở đầu với khung cảnh
của chiến tranh ác liệt và nhà vua truyền hịch kêu gọi mọi người tham gia chiến
cuộc. Trong bối cảnh này, nàng chinh phụ hình dung cảnh chồng nàng lên đường phò
vua giúp nước, ra đi với quyết tâm giành hàng loạt thành trì dâng vua, hùng
dũng trong chiếc chiến bào thắm đỏ và cưỡi con ngựa sắc trắng như tuyết. Cuộc
tiễn đưa lưu luyến kết thúc, người chinh phụ trở về khuê phòng và tưởng tượng ra cảnh sống của chồng nơi
chiến địa. Trong phần tiếp theo, câu chuyện chủ yếu diễn tả tâm trạng trăn
trở, cô quạnh của người chinh phụ. Cuối cùng, chán chường và tuyệt vọng, người
chinh phụ đã không còn muốn làm việc, biếng lơi trang điểm, ngày đêm khẩn cầu
mong được sống hạnh phúc cùng chồng. Kết thúc khúc ngâm, người chinh phụ hình
dung ngày chồng nàng chiến thắng trở về giữa bóng cờ và tiếng hát khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh
phúc trong thanh bình, yên ả. Người chinh phụ nhận ra rằng hạnh phúc không nằm
trong công danh mà là ở trong cuộc sống của chính mình.
Khảo sát một số tác phẩm khác như Ai tư vãn, Bần nữ thán… cho thấy, tất cả đều có chung một kiểu kết
cấu giống nhau và phụ thuộc vào nhãn quan của chủ thể trữ tình. Tác phẩm nào
cũng bắt đầu bằng việc thể hiện tâm trạng của chủ thể trong thời hiện tại. Tâm
trạng đó được nảy sinh sau những biến cố nào đấy, thường là bất lợi cho nhân vật
mà gây nên những cảm xúc buồn đau. Trong Ai
tư vãn, tám câu mở đầu của bài văn – và rộng hơn, của loại hình văn tưởng
niệm nói chung – giới thiệu những ý tưởng chung nhất về hiện trạng về nỗi đau mất
mát, biệt li. Trong 24 câu tiếp theo Ngọc Hân tái hiện hình ảnh con người, cuộc
đời và đức độ của Nguyễn Huệ. Điểm độc đáo và cũng là một sự hợp đương nhiên là
ở đây hình ảnh Nguyễn Huệ hiện lên không chỉ với tư cách người anh hùng mà trước
hết, trên hết là những mối quan hệ cụ thể, riêng tư, là tình vợ chồng. Đó là
quan hệ tình cảm khi thanh thản chung vui hạnh phúc, khi phải lo toan những điều
thường nhật, những điều bình thường như với bất cứ một đôi vợ chồng nào khác.
Tất nhiên, kết cấu của thơ trữ tình nói chung là cũng sự tổ chức,
triển khai tứ thơ để thể hiện dòng tâm trạng ấy. Tuy nhiên, tâm trạng của chủ
thể trữ tình trong ngâm khúc không giống với các áng thơ truyền thống khác. Đây
không phải là những tâm trạng bộc lộ qua những cảm xúc nhất thời, thoáng qua mà
là tâm trạng của con người mang một mối suy tư và những vấn đề hết sức trọng đại
của cuộc sống nhân sinh – vấn đề số phận con người và hạnh phúc của nó. Ở thế kỷ XVIII, các khúc ngâm chủ yếu viết về tâm
trạng bi kịch của người phụ nữ như người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm hay người cung nữ
trong Cung oán ngâm... thì hai
tác phẩm Thu dạ lữ hoài ngâm và Tự tình khúc lại viết về tâm trạng bi kịch của người đàn ông
phải chịu nhiều nỗi oan khuất do những thiết chế và hình luật hà khắc của chế
độ phong kiến gây nên. Như thế, có thể nói đây là những tiếng nói
mang giá trị nhân văn mới gắn với việc đòi quyền sống chính đáng cho những con người
vô tội.
Từ những
đau buồn vì những đổ vỡ, mất mát trong hiện tại, chủ thể trữ tình sẽ liên tưởng
về quá khứ, phần nhiều là quá khứ gần. Trở về với quá khứ thì họ đều nhận ra rằng
tất cả những hạnh phúc ngày xưa đều đã đổ vỡ không thể nào cứu vãn. Trong bế tắc,
tuyệt vọng, họ mơ về tương lai nhưng tương lai lại rất hão huyền, mong manh.
Quá khứ hạnh phúc, rự rỡ bao nhiêu thì hiện tại đau khổ, bi kịch bấy nhiêu. Ví
dụ như trong Tự tình khúc, tác giả chủ
ý biện hộ cho mình trước “tội lỗi” (theo quan điểm nhà Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát đã gây ra (cầm đầu cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin triều
đình ân xá. Dù chịu nhiều khổ sở, nhục nhã,
buồn tủi đau đớn vì bị oan ức, nhưng tác giả vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng và
luôn nhớ đến cha mẹ, vợ con cùng quê nhà. Kết thúc khúc ngâm, tác giả vẫn
tin tưởng vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào công lý của Trời và phúc đức của
nhà mình. Người ta gọi cảm xúc của nhân vật trong hiện tại là những cảm xúc hồi
cố, bi ai. Tất cả những sự so sánh đó đều nhằm xoáy sâu vào bi kịch của nhân vật
ở hiện tại.
Hình
thức kết cấu theo dòng tâm trạng này phục vụ rất đắc lực cho việc thể hiện chủ
đề của tác phẩm, vấn đề số phận con người và hạnh phúc của họ. Con người ngâm
khúc nhận thức được rằng hạnh phúc là có thực nhưng chỉ tồn tại trong quá khứ,
hiện tại đã mất và tương lai thì mờ mịt. Mỗi tác phẩm mở đầu bằng một lời than
và kết thúc cũng bằng một lời than nó tạo nên một nỗi ám ảnh khôn nguôi.
Trần
Đình Sử cho rằng: ngâm khúc là một thể loại văn học trung đại ViệtNam.
Tinh thần bi kịch thể hiện ở chỗ tìm lại giá trị nhân sinh mà không được, không
cam chịu mất mát giá trị mà đành bất lực và do bất lực mà lòng bất lực càng mạnh
thêm, day dứt hơn, [187; 9] và nhấn mạnh chức năng của thể loại này như sau:
“Có thể nói khúc ngâm có nhiệm vụ phơi trải lòng đau xót, sầu tủi, tiếc hận của
mình” [10; 185].
Nhóm học viên
Trương Thị Mai Hương - Trần Thị Ngọc Lê
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét