I. Một số vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm văn
hóa
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản
ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Từ văn hóa trong Chu Dịch được
tách thành hai từ văn và hóa. Nghĩa gốc của từ văn là vẻ đẹp do màu sắc tạo ra.
Văn là hình thức đẹp đẽ trong lễ nhạc, trong cai trị, trong ngôn ngữ, trong
cách cư xử,…
Đến thời
Tây Hán, Lưu Hướng đã sử dụng từ văn hóa sớm nhất, văn hóa được hiểu như một
thức giáo hóa con người. “Dùng văn hóa không thay đổi được sẽ chinh phạt”. Về
sau, văn hóa được hiểu như một phương thức để xây dựng cuộc sống.
Trong
giáo trình “Cơ sở văn hóa Việt Nam”,
Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu có các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo
ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính
văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật
tự xã hội.
2. Khái niệm tâm linh
Tâm linh bao gồm chữ “tâm’ và chữ “linh” tạo nên. Theo từ
điển Hán Việt của Thiền Chửu, “tâm” có nghĩa là tim, thuộc về thế giới bên
trong . “linh” có rất nhiều nét nghĩa như “linh” trong linh hoạt, nhạy bén;
“linh” trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn được
dùng để nói đến những ứng nghiệm, bói toán.
Theo từ
điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tâm linh được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất
tâm linh là khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra với mình, theo
quan niệm duy tâm. Thứ hai, được dùng theo nghĩa tâm hồn, tinh thần.
Theo
quan niệm của Nguyễn Đăng Duy thì: “Tâm
linh là cái thiêng liêng cao cả trong đời sống, là niềm tin thiêng liêng trong
cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng, cao cả, niềm tin thiêng liêng
ấy được ngưng đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm”.
Như vậy, có thể hiểu tâm linh là niềm tin của con người vào
sự linh thiêng, tâm linh gắn liền với ý thức cả con người. Tâm linh bắt nguồn
từ niềm tin của con người. Đó là niềm tin thiêng liêng về tổ tiên, niềm tin về
Mẫu, Phật, Chúa, niềm tin về các thần thành hoàng,…
Nói đến
khái niệm tâm linh, cần phải đặt trong sự tương quan với các khái niệm khác.:
tâm linh với tín ngưỡng – tôn giáo. Tín ngưỡng và tôn giáo không đồng nhất với
nhau. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có chung niềm tin thiêng liêng nhưng tín
ngưỡng không có giáo chủ, giáo lý, giáo hội cụ thể, không phải là nơi giảng
kinh thuyết pháp mà chỉ là nơi thề tự, cúng tế, hội hè, thường được tổ chức ở
đền, đình, miếu,…Ở tín ngưỡng, con người ta thấy mội vật đều linh thiêng, tập
trung giải quyết mối quan hệ giữa vcon người với tự nhiên. Tín ngưỡng gắn kết
mọi người với nhau, cùng hướng con người tới sự thịnh vượng của cuộc sống. Tức
tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh còn tôn giáo không hoàn toàn là tâm linh mà
chỉ là dạng đặc biệt của tâm linh.
Qua đây,
chúng ta cần phân biệt giữa tâm linh và mê tín dị đoạn. Mê tín dị đoan là “những
ý thức, hành vi mê muội, tin dựa vào những biểu tượng trái lẽ tự nhiên, có
những hành vi lễ bái, ứng xử mang tính chất cuồng tín, nhảm nhí, trái với lẽ
phải và hành vi thông thường của mọi người xung quanh, làm hại đến đời sống vât
chất và tinh thần của mọi người”. Tâm linh không phải là mê tín dị đoan, tâm
linh là niềm tin linh thiêng trong đời sống tinh thần của con người tin vào tổ
tiên, thần thánh, phạt, chúa,… hay những người không đi tu mà vẫn đi chìa, đền,
đình, vẫn ăn chay, lễ Phật. Niềm tin ấy đánh thức tâm hồn con người để sống và
làm việc tôt hơn xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của cha ông. Còn mê tín dị
đoan là tin một cách mê muội, làm hao tốn tiền bạc, có khi thiệt hại cả tính
mạng.
3. Khái niệm văn hóa tâm linh
Văn hóa tâm linh là thuật ngữ được hiện diện trên văn đàn vào
khoảng mười lăm năm gần đây, nhất là sau khi một số nhà nhân học, tâm lí học,
khoa học xã hội quốc tế thừa nhận yếu tố tâm linh, một trong bốn thuộc tính của
con người (con người xã hội, con người sinh học, con người tâm lí, con người
tâm linh). Tâm linh có hai nghĩa: khả năng đoán biết một biến cố sẽ xẩy ra;
tinh - khí - thần của người. Từ đó trở đi, một câu hỏi tưởng chừng như ẩn số:
“Con người là một bí ẩn” mà nhiều nhà tư tưởng lớn đặt ra ở thế kỷ XIX, được triết
học văn hóa giải mã khi nghiên cứu con người: cái tự nhiên và cái phi tự nhiên,
lý trí và tình cảm, trí tuệ và bản năng, lý tưởng và tính dục, cái thiêng và
cái tục, nhân vị và siêu nhân v.v… Như vậy, khi ghép tâm linh vào văn hóa, thì
khái niệm văn hóa tâm linh là hình thái văn hóa của một tộc người gồm: tôn
giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật dân gian (folklore) và một phần của sáng tạo khoa
học, nghệ thuật như sự thăng hoa, phút xuất thần, “tia chớp” cảm hứng sáng tạo,
trí tuệ phát sáng của nhà khoa học và nghệ sĩ.
Theo
Nguyễn Đăng Duy: “Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng
liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện những giá trị thiêng liêng cuộc
sống tín ngưỡng tôn giáo”. Văn hóa tâm linh không chỉ bao gồm giá trị văn hóa
vô hình mà cả những văn hóa hữu hình. Văn hóa tâm linh là sợi dây liên kết cộng
đồng, lưu giữ truyền thống, giáo dục lòng nhân ái và tinh thần hướng thiện, góp
phần tạo nên chiều sâu sức sống cho nền văn hóa dân tộc.
Văn hóa
tâm linh có những đặc điểm sau:
Tính
thiêng: “Có thể coi tâm linh là một khái niệm tâm lý nói lên sự gắn kết ba phạm
trù thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai. Chỉ ở con người mới có các phạm
trù thời gian và sự gắn kết chúng lại với nhau”. Có linh hồn hay do thần giao
cách cảm hoặc các luồng điện hiện lên trong trường sinh học? Hay chỉ là chuyện
người đang sống hướng tất cả tinh thần, khí chất, tình cảm về người đã khuất!?
Đây là đề tài đòi hỏi sự nghiên cứu công phu của nhiều ngành khoa học. Có điều,
việc hướng về cội nguồn, biết ơn người đã khuất, tri ân công trạng của các bậc
tiên hiền, tôn vinh những danh nhân có công với nước, với dân là một phong tục
đẹp ở nước ta.
Tính hoà
giải: Giáo lý của các tôn giáo lớn ở nước ta có một đặc điểm chung là tính hoà
giải. Ba tôn giáo là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Đạo giáo được du nhập từ nước
ngoài, nhưng khi vào nước ta đều được bản địa hoá, dân gian hoá, phong tục hoá
để dễ bề truyền bá. Giáo lý của ba tôn giáo cũng có nhiều điểm rất khác nhau, có
những tri thức rất cao siêu, suy lý tư biện, thậm chí huyền bí, nhưng ở cả ba
đều mang tính nhân văn, lấy con người làm trung tâm: yêu con người, cầu mong xã
hội thái bình, quốc thái dân an, mở rộng lòng bác ái công bằng, từ bi, hỷ xả,
triết lý sống gắn với thiên nhiên v.v…
II. Thế giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du
1.
Lễ hội
Hội là những cuộc chơi.
Chúng ta có tết Nguyên Đán ngày đầu năm mới, tết Thượng nguyên 15
tháng giêng, tết Trung Nguyên, tết Thanh Minh, tết Đoan Ngọ, tết Trung Thu,….Đây
là những dịp để mọi người nhất là nam thanh nữ tú gặp gỡ, trò chuyện, kết bạn,
vui chơi. Còn lễ cũng đi kèm với hội
dưới hình thức cúng bái với thần thánh, tiên, phật, hoặc người cõi âm
như lễ rước thần Lúa, lễ cầu mưa, nghi
lễ phồn thực, lễ tảo mộ. Nguyễn Du đã đưa những lễ hội tuyền thống của dân tộc vào
trong sáng tác của mình.
Trước hết đó là tiết
thanh minh và hội đạp thanh. Lễ tảo mộ trong tiết thanh minh vào tháng ba âm
lịch là một nét đẹp trong truyền thống văn hóa Việt. Trong “Truyện Kiều”,
Nguyễn Du đẫ đề cập đến vấn đề này: “Thanh
minh trong tiết tháng ba./ Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Khi đi tảo mộ,
ta sẽ thấy hai trường hợp xảy ra, một là với những nấm mồ có được người thân
cúng viếng, sửa sang thì ngôi mộ sẽ sạch sẽ, ấm áp; còn với những mộ vô chủ thì
cỏ mọc um tùm, hương khói lạnh tàn. Thúy Kiều khi đi qua nấm mộ của Đạm Tiên đã
phải thốt lên rằng: “Rằng:sao trong tiết
thanh minh/ Mà sao hương khói vắng tanh thế này?”.
Sau lễ là hội, đây là dịp
để mọi người giao lưu , gặp gỡ, nhất là với những nam thanh nữ tú. Mọi người
đều háo hức, chờ đợi: “Gần xa nô nức yến
anh/ Chị em sắm sửa bộ hình chơi xuân,/ Dập dìu tài tử văn nhân,/ Ngựa xe như
nước áo quần như nêm”. Đây cũng là nơi mà Thúy Kiều đã gặp chàng Kim. Trong
hội sẽ có những trò chơi đòi hỏi sự tham gia của mọi người như tục đố là. Đây là trò chơi dân gian, các
chàng trai, cô gái sẽ bẻ một nhành cây rồi đó xem số là chẵn hay lẻ mà đoán vận
may rủi.
Thứ hai là rằm tháng bảy, còn gọi đó là tháng cô hồn. Đây
là dịp để con cái báo hiếu với cha mẹ, cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ mạnh khỏe,
sống lâu. Nguyễn Du đã mời các cô hồn đến dự lễ cầu siêu trong “Văn chiêu hồn”.
Không cần biết họ là ai? Người thế nào? chỉ biết đó là những hồn oan của những
người đã mất, hồn không nơi nương tựa, đói ăn, đói mặc.
2. Cõi âm, hồn ma
Cõi
âm còn gọi là nơi chín suối, chốn cửu tuyền, thế giới bên kia,..Nguyễn Du hình
dung ra đó là một nơi hết sức đen tối với những hồn ma không đầu và có đầu nheo nhúc, ngẩn ngơ, xiêu dạt, không nơi
nương tựa: “Lòng nào chẳng thiết tha, cõi
dương còn thế nữa là cõi âm” ; “Trong
trường dạ tối tăm trời đất/ Có khôn
thiêng phảng phất u minh,/ Thương thay thập loại chúng sinh,/ Hồn đơn phách
chiếc lênh đênh quê người.”
Trong
“Văn chiêu hồn”, tồn tại rất nhiều
hồn ma, đó là những hôn ma bơ vơ, cô đơn, lẻ loi: “Hồn mồ côi lẫn lửa đem đen”, “Hồn
đơn phách chiếc”, “Cô hồn thất thểu
dọc ngang”,…..
Nguyễn
Du còn thường xuyên trò chuyện với người đã chết, tức người đang nằm dưới mộ
Người nằm dưới mộ có đủ mọi loại người, Nguyễn Du hầu như quan tâm đến tất
cả. Có thể kể ra đâu những hồn ma được
Nguyễn Du nhớ đến sau đây:
-
Người phụ nữ: đó là nàng Tiểu Thanh, cô Cầm, người hầu cũ của en, người đẹp ở
đất La Thành, người đàn bà trong đá vọng phu, các bà phi vợ vua Thuấn, chị em
TiểuKiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quý Phi, Ngu Cơ, ba người đàn bà ở miếu
Tam Liệt... Và đặc biệt là hình ảnh người vợ hiền đầu gối tay ấp đã mất của nhà
thơ trong bài Ký mộng.
-
Người tài, người hiền: Nguyễn Du quan niệm rằng xưa nay hiếm, lại hay bị trời đất
ghen ghét. Ông mến họ vi họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương nòi,
trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo
quốc. Ông hết lời tuyên dương họ và nêu bật được những nét tích cực nhất của
họ. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm dưới
đất tóc ông vẫn dài nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế Lâm Cù Các
bộ). Ông thông cảm cho Liễu Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, thương cho
số kiếp đày đọa của con người tài hoa, thấu hiểu vì sao cỏ cây khe suối nơi ông
ở đều có tên là Ngu (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch). Qua sông Hoài nhớ Hàn
Tín, Nguyễn Du nhắc đến nghĩa cử cao đẹp đền ơn Phiếu mẫu, nhắc đến tinh nghĩa
vua tôi... (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu). Cũng trên sông Hoài, Nguyễn Du vừa
phục tài thơ vừa thâm cảm chính khí của người anh hùng dân tộc thời Nam Tống là
Văn Thiên Tường, tác giả Chính khí ca nổi tiếng (Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa
tướng). Ông cũng ca ngợi Âu Dương, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tông.
Bùi Tấn Công tướng mạo tầm thường mà văn võ song toàn, một đời xả thân cống
hiến nhưng cứ bị bọn hoạn quan lộng quyền, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tấn Công
mộ). Tỷ Can, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha đều là những bề tôi trung nghĩa. Tỷ
Can chết một gò cây cỏ đều được thành nhân. Liêm Pha nghìn thuở tên tuổi vẫn
còn truyền. Kinh Kha một lần ra đi làm lạnh cả dòng nước sông Dịch. Gương trung
liệt của Dự Nhượng nghìn đời còn ghi...
Nguyễn Du không chỉ thương cảm số phận
bi đát của họ mà ông còn khâm phục họ. Đối với những người mắc một nỗi oan lạ
lùng như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc Phi... Nguyễn Du tự xem mình cùng hội cùng
thuyền, tự ngồi vào ngã tự cư con thuyền số mạng chòng chành của những nhân vật
sống cách ông hàng nghìn năm. Nguyễn Du đau đớn thay Khuất Nguyên Hãy sớm thu
tinh thần vào cõi hư vô, nuốt tủi thay Đỗ Phủ, ngậm hờn thay Nhạc Phi Mười năm
huyết chiến để làm nên cái việc. Bị giết ở đình Phong ba để triều đình tạ tội
với người Kim (Yển thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ)... Đó là những người tài, một
sớm một chiều bị số phận vùi dập. Còn đối với những kẻ ảc, kẻ xấu thái độ của
ông cũng rất rõ ràng. Ông phê phán Tào Tháo, chê giễu Tô Tần, mắng chửi không
tiếc lời đối với vợ chồng Tần Cối, kẻ đã hại chết người anh hùng Nhạc Phi…
3. Mồ mả, tha ma
Trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du, thế giới này hiện diện rất rõ. Thanh Lãng nói hơi quá
nhưng có cơ sở: “Nguyền Du thi sĩ của
niềm tin dị
biệt, thi sĩ của mồ mả, tha ma, nghĩa địa...”. Thật vậy đã có 84 lần Nguyễn
Du nhắc đến mồ mả, đình đền, gò đống trong 250 bài thơ của mình. Đây là không
gian của người chết. Quả là Nguyễn Du quan tâm nhiều đến ngôi nhà của người
chết. Thực ra trong thơ chữ Hán có bộ phận thơ đi sứ, ở đó ông thường nhắc lại
những nhân vật tiếng tăm trong lịch sử Trung Quốc mà ông đã được đọc qua sách
và hay chứng kiến tận mắt trên đường đi. tất nhiên phải nói đến mồ mả, đình đài
... tuy không nhất thiết phải vậy! Và ở một số bộ phận thơ khác, trong phong
cảnh cũng có lẩn khuất hình ảnh những nấm mộ hoang, những đống xương tàn, những
đình đài xiêu ngã. Trong thế giới của sự sống thì cái chết là một cái gì vô
cùng bí ẩn, con người luôn thấy sợ hãi trước nó và muốn hiểu biết về nó. Nguyễn
Du hơn ai hết đã ý thức về sự sống tạm bợ ngắn ngủi này và luôn lo lắng phập
phồng về cái chết. Bao nhiêu câu hỏi về nhân sinh cứ ngổn ngang khiến Nguyễn Du
không thể không đưa nó vào thế giới nghệ thuật của mình. Nó trở thành một mốì
bận tâm sâu sắc và hễ lúc nào thuận tiện thì nó bật ra trong thơ. Cho nên những
đình đền, gò đống, mồ mả thường phát ra tín hiệu âu lo về cuộc sống nhân sinh
và Nguyễn Du là người luôn luôn nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu đó và phát sóng đi,
lan truyền tới mọi người. Nếu không thế tại sao cứ gặp mồ mả, gò đống thì
Nguyễn Du xúc dộng?
“Vãng sự bi thanh trừng
(Thu chí)
(Chuyện cũ bi thương nấm mồ cỏ xanh)
Lộ kinh Tam Tấn giai khâu thổ
(Dư Nhượng chủy thủ hành)
Hình như ông muốn kiến
giải vể những nấm mồ, những gò đống kia nhưng rồi có lẽ không kiến giải nổi nên
ông chỉ nói theo cách nói của người xưa với giọng ngùi ngùi:
“Thiên niên cổ mộ một Phiên ngu” (Triệu Vũ
Đế cổ cảnh)
(Ngôi mộ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã
mất)
“Thu thảo nhất khâu tang thử lạc” (Âu
Dương Văn Trung mộ)
(Một nấm cỏ thu thành hang chuột cáo)
Cái chết, thời gian cũng
vùi lấp. Chỉ có không gian của vũ trụ là trường tồn. Tiến trình đi đến hủy diệt
tan rữa ấy không nhường bước trước một ai.Vua chúa hay thường dân cuối cùng
cũng chỉ còn lại một nấm đất.
“Phong xuy cổ trủng phù vinh tận” (Ngẫu
thư công quán bích)
(Gió thổi vào nấm mồ xưa bao vinh hoa hảo
tan hết)
“Cổ kim hiền ngu nhất kháu tho” (Hành lạc
từ II)
(Xưa nay kẻ hiền người ngu cũng chỉ còn
trơ lại một nấm đất).
Nấm đất ấy lại tiếp tục
đi vào hệ thống tan rã, nó sẽ bị san phẳng hoặc sụp đổ, nghiêng lở để cuối cùng
không còn lại dấu vết nào. Con người khi ấy thực sự trở về cốt bụi. Như vậy những
vấn đề khác được đặt ra: con người chết rồi sẽ đi đâu, về đâu? Có sự tồn tại
của kiếp sau đời người hay không? Kiếp này và kiếp sau có liên quan gì? Khoảng
giữa kiếp trước và kiếp sau phần xác tàn rữa, còn phần hồn nương tựa vào đâu,
hay cứ phải lơ lửng vật vờ?.... Những câu hỏi không có lời đáp, con người không
thể tìm biết được. Vì thế cho nên cái chết đối với con người thật đáng sợ. Và
cuộc sống hiện tại là tất cả, ông khuyên con người phải biết tôn trọng cuộc
sống của mình, phải biết nắm giữ vận mệnh của mình.
Trong Truyện Kiều, không
gian du xuân của 3 chị em Thúy Kiều không phải là cảnh quang êm ả mà là không
gian của mồ mả, tha ma, nghĩa địa “Ngổn
ngang gò đống kéo lên / Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”. Sau đó không
lâu hình ảnh bóng ma kỹ nử Đạm Tiên xuất hiện. Bóng ma ấy là sợi dây định mệnh
theo suốt cuộc đời của Thúy Kiều.
4. Cầu cúng, khấn vái
Thờ
cúng là một phong tục, nét văn hóa của người Việt nhằm nhớ ơn đến tổ tiên, ông
bà, cầu mong ông bà phù hộ cho con cháu mạnh khỏe, làm ăn phát đạt. Trong các
sáng tác của Nguyễn Du, ta có thể thấy rõ việc này thông qua lập đàn cầu đảo,
lập đàn chiêu hồn. Thúy Kiều trước Phật đài cầu an cho cha mẹ: “Nén hương đến trước thiên đài/ Nỗi lòng
khấn chữa cạn lời phân vân”. Hay như Thúc Sinh mời thầy đạo sĩ về lập đàn
cầu đảo mong tìm thấy tin tức của Kiều: “Trên
tam đảo, dưới cửu tuyền,/ Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng,/ Sắm sanh lễ vật
đưa sanh/ Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han”. Những oan hồn trong “Văn tế thập loại chúng sinh” đã được
Nguyễn Du lập đàn cúng: “Đàn chẩn tế vâng
lời Phật giáo./ Của có chi bát cháo nén
nhang/Gọi là manh áo thoi vàng/ Giúp cho làm của ăn đàng thăng thiên.” Thắp
nhang, khấn vái để nói lời tri ân với người đã chết, có khi đó là sự sẻ chia
tâm tư với người bất hạnh nơi chín suối. Thúy Kiều khi đi qua mộ Đạm Tiên đã
thắp hương và khấn vái: “Đã không kẻ đoái
người hoài,/Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương/ Gọi là gặp gỡ giữa đường/Họa là
người dưới suối vàng biết cho/ Lầm rầm khấn khứa nhỏ to/Sụp ngồi vài gật trước
mồ bước ra”.
Trong
Truyện Kiều nhân vật thề nguyền với nhau rất nhiều. Những từ: Thề, nguyền,
nguyện xảy ra 23 lần, câu thề được nói ra 7 lần và một lời (lời thể) 18 lần.
Trong “Văn chiêu hồn”, tự thân tác
phẩm cũng đã cho thấy một cách rõ rệt hai thế giới âm - dương. Người trên cõi
thê cúng tế để giải thoát cho các linh hồn chết oan ở cõi âm.
5. Giấc mộng
Thế
giới tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du còn được biểu hiện thông qua giấc
mộng. Giấc mộng thể hiện việc nhìn thấy người hay sự kiện hiện ra như thật
trong giấc ngủ. Đó như là đỉnh điểm của mọi mong ngóng, ám ảnh được tái hiện
trong giấc ngủ của con người.
Có giấc mộng lành và có
giấc mộng dữ. Giấc mộng lành không gây ra nỗi sợ hãi, lo lắng cho con
người mà thường mang lại may mắn. Trong
thơ chữ Hán, giấc mộng xuất hiện nhiều và cảm động nhất là cuộc gặp gỡ người vợ
quá cố đầu gối tay ấp trong bài “Ký
mộng”. Tình cảm của ông đối với vợ thật sâu
nặng. Ông không ca ngợi vợ như Bùi Hữu Nghĩa, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Kiều, ông
thực sự nghĩ về vợ bằng tất cả nỗi nhớ nhung xuất phát từ tình yêu. Nguyễn Du
xa nhà năm tháng phiêu bạt, người vợ nếu không mất thì chắc cũng đang chờ đợi
héo hon. Ông đã hình dung ra điều ấy. Gặp lại vợ trong giấc mơ, bao nhiêu nỗi
niềm trong tưởng tượng được dịp tuôn chảy dạt dào. Nguyễn Du nói trong mộng
thấy rõ ràng Mộng trung phân minh kiến nghĩa là thấy rất rõ người vợ từ quê
hương lặn lội tìm chồng nơi bến sông, nhan sắc vẫn như xưa tuy áo quần có hơi
xốc xếch. Thêm nữa, người vợ vốn không biết đường mà núi Tam Điệp nhiều hổ báo,
sông Lam lắm thuồng luồng, đường đi hiểm trở... Vẽ ra bao nhiêu lí do để thấy
chuyện đi tìm chồng của vợ là cực kì khó khăn nhưng nhớ nhau quá đành phải
liều... nàng chỉ có một lí do duy nhất là nhớ chồng. Tỉnh cảm mới đẹp làm
sao! Vợ Nguyễn Du đã vượt qua tất cả, cả khuê môn lẫn đưòng xa vất vả chỉ để
nói ìên tiếng nói tình yêu. Và người chồng càng tuyệt vời, sâu sắc hơn khi
tưởng tượng ra tất cả những điều ấy trong giấc mộng.
Giấc
mộng dữ đem đén sự sợ hãi, lo lắng, ám ảnh. Giấc mộng gặp Đạm Tiên của Thúy
Kiều có thể coi là giấc mộng dữ để rồi từ đó số phận của Kiều gắn với những lần
báo mộng đó. “Thoát đâu thấy một tiểu
kiều/ Có chiều phong vận có chiều thanh tân”; hay “Rằng: vâng trình hội chủ xem tường/ Mà xem trong số Đoạn trường có
tên”; “ Rỉ rằng nhân quả dở dang/ Đã toan trốn
nợ đoạn trường được sao/ Số còn nặng nghiệp má đào/Người dù muốn quyết,
trời nào có cho/ Hãy xin hết kiếp liễu bồ/ Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”.
Như vậy thông qua giấc
mộng, Nguyễn Du muốn nói điều gì? Thế giới tâm linh tràn ngập trong bài thơ.
Mộng - thực. Người sống - người chết. Trần thế - âm phủ. Hai thế giới này có
thể tương thông qua hình thức giấc mộng.
Còn rất nhiều bài thơ
khác Nguyễn Du đề cập đến giấc mộng và chính ông cũng tự nhận thấy mình là
người hay sống trong mộng, cũng không chỉ mình ông mà cả thiên hạ đều sống
trong mộng
“Tri giao quái ngả sầu đa mộng
Thiên hạ hà nhân khấp mộng trung”(Ngẫu đề)
Nguyễn Du đã dùng cách
nói của Lão Trang để giải thích nhưng thực ra đây cũng là cách chứng thực cuộc
đời. Cuộc đời này với những mong ước chỉ có thể có trong giấc mộng mà thôi. Mà
cuộc đời này khác gì giấc mộng Trần thế bách niên khai nhãn mộng (La phù giang thủy các độc tọa). Do đó mà
con người luôn thu minh lại với cái bóng, chia sẻ với cái bóng, nhưng rồi ngay
cả cái bóng cũng chẳng giải quyết được gì.
6. Ý nghĩa của các
yếu tố tâm linh trong sáng tác của Nguyễn Du
6.1. Phản ánh hiện
thực đời sống
Trước
hết đó là hiện thực đời sống tâm linh. Có những hiện tượng tâm linh tồn tại ảo
như trời, phật, thần thánh, chiêm bao, mộng mị,…Tuy nhiên, đa số chúng ta đều
thừa nhận rằng có thế giới siêu nhiên ngự trị trong đời sống của con người và
sự phán quyết của thế giới quyền năng này được gọi là số phận, nghiệp, duyên,
kiếp. Bên cạnh niềm tin vào sự linh thiêng khi cầu khẩn, người xưa còn tin vào
chiêm bao, mộng mị, cho rằng mọi việc diễn ra trong giấc mộng đều mang một ý
nghĩa nhất định. Hiện thực đời sống tâm linh còn được người xưa nói đến niềm
tin vào luật nhân quả: “gieo nhân nào thì gặt quả đó”, “Ở hiền gặp lành, ở ác
gặp dữ”.
Bên cạnh đó còn có yếu tố
tâm linh tồn tại thực như đền, đình, mồ mả, thờ cúng, khấn vái,…Nhu cầu tâm
linh là nhu cầu chính đáng của con người, đó là điểm tựa không thể thiếu trong
đời sống trần thế. Vào dịp lễ tết hay ngày rằm, mồng một, ngày giỗ ông bà, con
cháu trong gia đình đều làm lễ để cúng tổ tiên, ông bà. Theo quan niệm của
người xưa, mồ mả là nơi yên nghỉ cuối cùng của tổ tiên, mọi việc trong cuộc
sống hiện tại của con cháu đều liên quan đến mồ mả, tổ tiên, vì vậy mà con cháu
phải có ý thức giữ gìn,chăm sóc phần mộ của ông bà. Một hiện tượng tâm linh
thực nữa đó là người Việt thích được xem bói như xem ngày động thổ, giờ hạ
huyệt, cũng thích thề nguyền. Đó là những tập tục không thể thiếu trong đời
sống của dân Việt.
Ngoài
ra, thông qua hiện thực đời sống tâm linh chúng ta có thể thấy được hiện thực
đời sống xã hội đương thời. Các yếu tố tâm linh không phải là một cái gì xa lạ
mà chính là hiện thực đời sống được lạ hóa với tính chất kì lạ, những yếu tố
tâm lí như là một hình thức nghệ thuật nhằm phản ánh cái thực của đời sống xã
hội. Mượn ảo để nói thực. Đó là hiện thực cuộc sống lay lắt bởi đe dọa của
chiến tranh, sự đổi thay của thời đại, sự tang thương bể dâu của cuộc đời, sự
chóng vánh, ngắn ngủi của một kiếp người, nhất là bức tranh phong phú, đa dạng
về xã hội từ thế kỉ XVIII- XIX.
6.2. Ý nghĩa giáo dục sâu sắc
Đằng
sau những câu chuyện về yếu tố tâm linh là những bài học sâu sắc cho con người.
Thờ cúng với bài học đạo
đức, lòng bao dung. Chúng ta thờ cúng các vị thần là vì theo quan niệm đó là
lực lượng siêu nhiên có khả năng giúp đỡ con người tai qua nạn khỏi, đem lại
cuộc sống bình an. Đồng thời cũng nhắc nhở những người đang sống phải nhớ đễn
cội nguồn, biết kính trọng, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ lúc sinh thời và thờ
phụng khi họ qua đời. Thông qua hình tượng Thúy Kiều mà giáo dục lòng hiếu thảo
của con cái đối với cha mẹ. Thờ cúng tổ tiên có ý nghĩa giáo dục quan trọng đối
với các thành viên trong gia đình, dòng họ. Đó không chỉ là nhu cầu đền ơn đáp
nghĩa mà còn là nhu cầu tinh thần bù đắp những thiếu hụt trong cuôc sống thực
tại khó khăn của con người.
Lời thề với bài học về
tinh thần trách nhiệm. Con người phải chịu trách nhiệm với những gì mình đã
nói, những việc mình đã làm. Đó là con người dám nghĩ, dám làm và dám chịu
trách nhiệm.
Ngoài ra, thông qua yếu
tố tâm linh thì con người xích lại gần nhau với nhau hơn, tăng tính đoàn kết,
nó là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Qua đó, thể hiện ước mơ,
kháy vọng hạnh phúc của con người. Mơ ước một xã hội tự do, công bằng, hạnh phúc,
khát khao về tình yêu tự do.
KẾT LUẬN
Việc am tường về văn hóa, đặc biệt là văn hóa tâm linh với
những biểu hiện sinh động, phong phú của nó đã giúp cho Nguyễn Du có cái nhìn
toàn vẹn, sâu sắc về cuộc sống, con người. Thế giới tâm linh tràn ngập trong
sáng tác của Nguyễn Du và được ông sử dụng như một phương tiện hữu hiệu nhằm
bộc lộ nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Ẩn sau cái thế giới đó là những vấn đề
nóng bỏng của thời đại, những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để rồi bạn đọc
có thể tìm thấy cho mình những giá trị văn hóa truyền thống từ lâu đời của cha
ông, đó là tục thờ cúng tổ tiên, là những lễ hội mang đậm màu sắc dân gian, là
những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp được truyền từ đời này sang đời khác. Chính yếu
tố tâm linh làm cho tác phẩm mang nhiều nét buồn thương, bi thiết vì những nấm
mồ vô chủ, những oan hồn cô đơn, lạnh lẽo đồng thời ta lại thấy được chân dung
của một con người với tình thương bao la, một nhà nhân đạo lớn của dân tộc, một
người hết lòng vì đời. Những sáng tác của Nguyễn Du mãi mãi để lại sâu sắc
trong lòng bạn đọc bởi trái tim ông đã đập cùng nhịp đập của hàng triệu người
dân Việt Nam .
Nhóm của
Hà Thị Hoài Phương
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaSáo rỗng và quy chụp theo mô típ quen thuộc. Vắng bóng hoàn toàn chính kiến và con mắt khải huyền - một điều kiện cần thiết để luận bàn về chủ đề này. "Khải Huyền" mang chức năng tinh từ phẩm định sự đủ tầm của kẻ trí khi muốn luận về nội dung kiểu này! Cao học kiểu này.... thường quá!
Trả lờiXóa