MỞ ĐẨU
Kể từ năm 1986, khi Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh phát biểu trước văn nghệ sĩ "Hãy cởi trói cho văn nghệ" thì nền văn học Việt Nam có
sự chuyển biến sâu sắc. Sự kiện văn học quan trọng đầu tiên có thể khẳng định
là tiểu thuyết "Thời xa vắng"
của Lê Lựu và "Mùa lá rụng trong
vườn" của Ma Văn Kháng. Người ta buộc phải thừa nhận khuynh hướng
"nhận thức lại" của văn học. Vương Trí Nhàn cho rằng: ""Thời xa vắng" là tiếng kêu
của cả một lớp người cho tuổi trẻ của mình, cuộc đời của mình, ngay khi thành
đạt trong lập nghiệp nữa, họ vẫn bất hạnh vì không biết sống" .
Tác
phẩm được coi như một cắm mốc cho sự chuyển mình của giai đoạn văn học mới. Đến
năm 1987 xuất hiện "một hiện tượng văn học mới"- Nguyễn Huy Thiệp. Sự
xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp đã làm chấn động làng Văn. Một mình ông tạo nên
một đời sống văn học sôi động kéo dài mấy mươi năm và còn nóng bỏng đến tận hôm
nay. Cái hay của Nguyễn Huy Thiệp là cái
lạ, cái độc đáo. Cái hấp dẫn ấy được thể hiện rõ trên tất cả các trang văn
của ông. Tuy nhiên, với dung lượng hạn chế của một bài tiểu luận, chúng tôi
không thể khảo sát nghiên cứu hết tất cả những yếu tố lạ và độc đáo ấy. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ đi khảo sát một
khía cạnh nhỏ trong tài năng ấy của ông. Đó là "Sự kết hợp tự luận – thơ" ở một số truyện ngắn liên hoàn của
ông: "Những ngọn gió Hua Tát",
"Thương nhớ đồng quê", "Con gái thủy thần" và "Chút thoáng Xuân Hương".
NỘI DUNG
1. Giới thuyết về truyện ngắn liên hoàn
1.1. Truyện ngắn liên hoàn
và các tên gọi
Người ta gọi Truyện ngắn liên hoàn bằng nhiều cái tên khác
nhau. Theo Henry James Review trong tiểu luận “Truyện ngắn chuỗi: Một cuốn sách mở” cho rằng: Người ta gọi hình
thức văn học này bằng nhiều cái tên, nhưng không có cái tên nào nhấn mạnh đến
vai trò độc giả trong việc phát triển ý nghĩa của truyện bằng cái thuật ngữ: Truyện ngắn chuỗi. Joel Silverman gọi là
“Phức hợp truyện ngắn”. Pleasant Reed
và Timothy Alderman gọi là “sưu tập
truyện ngắn hòa nhập”. Còn Joseph Reed gọi là “Hợp chất truyện ngắn”.
Các tên gọi trên đều chỉ một "cụm truyện" gồm có
nhiều truyện liên kết với nhau. Giữa các
truyện có chung một khung cảnh, một số nhân vật. Tuy mỗi truyện một chủ đề
và trong mỗi truyện có một nhân vật nổi lên, nhưng giữa các truyện cứ đan xen
nhau, tác động lẫn nhau. Sự tác động đó đã tạo nên một cấu trúc mở, đặc biệt mở về chiều sâu của chủ đề, mở
về phương diện xã hội, về nghệ thuật điển hình hóa, cả việc mở về trường liên
tưởng của người đọc.
1.2. Truyện ngắn liên hoàn
của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sáng tác hơn năm mươi truyện ngắn, trong
đó có bốn truyện có thể gọi là truyện ngắn liên hoàn, đó là "Những ngọn gió Hua Tát",
"Thương nhớ đồng quê", "Con gái thủy thần" và "Chút thoáng Xuân Hương".
"Những ngọn gió Hua Tát" gồm mười truyện trong bản
nhỏ. Bản nhỏ có tên là Hua Tát, là một bản của người Thái đen miền Tây Bắc. Từ
những câu chuyện cổ của bản Hua Tát, Nguyễn Huy Thiệp cấu thành mười truyện nhỏ
của mình. Cả mười truyện cùng chung nhau một không gian, địa điểm là Hua Tát
huyền thoại. Các nhân vật: Pùa – Trái tim
hổ, Nàng Bua- Nàng Bua, ông Pành-
Đất Quên, Hà Thị E- Tiệc xòe vui nhất...đều là những nhân
vật từng sống trong bản Hua Tát trước kia. Hàng loạt sự kiện: giết hổ dữ, săn
thú, kén rể, dịch hạch...đều diễn ra ở bản. Trong thế giới nhân vật của "Những ngọn gió Hua Tát", có
sự lặp lại nhân vật giữa các truyện: nhân vật có mặt ở hai truyện nhỏ trở lên.
Là những con người của bản Hua Tát, các nhân vật xuất hiện ở từng thời điểm
khác nhau của các câu chuyện khác nhau: có mặt ở truyện này, đồng thời có mặt ở
truyện kia. Nhân vật Hà Văn Nó hiện diện với tư cách một trưởng bản sáng suốt,
có trách nhiệm trong "Tiệc xòe vui
nhất" và "Chiếc tù và bị bỏ
quên". Ông Pành- ông già nổi tiếng khắp bản trong "Đất quên" chính là người cha có đứa con cũng rất nổi
tiếng Sạ trong "Sạ". Chàng
Khó trong "Trái tim hổ" giàu tình thương lại xuất hiện linh thiêng
trong truyện "Nàng Sinh". Việc
lặp lại sự xuất hiện của các nhân vật, từ mối dây liên kết giữa các nhân vật
với nhau, giữa nhân vật với bản nhỏ, Nguyễn Huy Thiệp đã làm cho các truyện nhỏ
có mối liên kết chặt chẽ hơn.
Việc bao trùm cùng một
không gian, địa điểm lên các truyện nhỏ, việc lặp lại một số nhân vật giữa các
truyện đã tạo nên một dung lượng lớn và một cái nhìn bao quát về chùm truyện "Những ngọn gió Hua Tát". Những
vấn đề vĩnh cữu về cái thiện và cái ác, về số phận, nỗi đau khổ, dằn vặt, đau
đáu muôn đời trong con người đều có mặt ở đây. Chuyện của bản nhỏ nhưng cũng
cũng là chuyện của toàn nhân loại. Đời sống cộng sinh chứa đựng bao điều con
người không thể phủ nhận. Những vấn đề muôn mặt của cuộc sống diễn ra cùng
trong bản Hua Tát cho thấy điều đó.
Trong "Chút thoáng Xuân Hương" có ba truyện. Ba truyện diễn ra
ở ba không gian khác nhau. Truyện thứ nhất và thứ hai diễn ra trong không gian
mang không khí lịch sử bảng lảng cổ tích, huyền hoặc. Truyện thứ ba mang không
gian của thời hiện đại. Tuy nhiên, cả ba không gian ấy đều là khung cảnh mà
nhân vật chính Xuân Hương xuất hiện. Sự xuất hiện lặp lại những hình ảnh Xuân Hương
trong cả ba truyện đã là sợi dây kết dính của ba truyện trong chùm truyện. Xuân
Hương dù xuất hiện trong bảng lảng cổ tích (Truyện
thứ nhất), đứng ngoài "tầm với" (Truyện thứ hai) hay gần gụi đời thường (Truyện thứ ba) đều là hình tượng biểu trưng cho cái đẹp. Sự liên
kết đó còn làm cho người đọc có được sự nhìn nhận chỉnh thể về hình tượng. Qua
đó, thể hiện rõ thông điệp về cái đẹp muôn thuở của con người.
Chùm truyện"Con gái thủy thần" gồm có ba truyện. Trong chùm truyện, hình
tượng nhân vật mẹ Cả dù xuất hiện mơ hồ hay cụ thể trong muôn vàn huyền thoại
thêu dệt của người đời và trong tâm thức của nhân vật Chương, mẹ Cả luôn có mặt
trong từng thời điểm trên hành trình kiếm tìm. Trong cả ba truyện nhỏ thuộc
chùm truyện, có khi mẹ Cả hiện thân là hình ảnh các cô Phượng (Cô giáo tên
Phượng- Truyện thứ nhất; Cô Phượng xứ
đạo–Truyện thứ hai; Cô chủ tên
Phượng- Truyện thứ ba), có khi chỉ là
hình ảnh mơ hồ qua sự hình dung của Chương. Cái huyền hoặc ấy đã đưa Chương ra
đi, đi tìm mẹ Cả, đi tìm tình yêu của mình. Chương ra đi trong một không gian
rộng mở. Đích đến là biển nhưng trước khi đi đến biển vô cùng, nhân vật phải
trải qua rất nhiều không gian, từ nông thôn cho đến thành thị. Như vậy, khung
cảnh của truyện những không gian mà Chương đi qua. Chính độ mở về không gian
này đã giúp tác giả mở rộng biên độ phản ánh và hoàn thiện chủ đề của các tác
phẩm trong chùm truyện.
Với "Thương nhớ đồng quê", không gian được truyện phản ánh là
một nơi thôn dã yên bình. Đó là nơi Nhâm sống và kể lại chuyện của làng và những
người trong làng mình. Qua lời kể của Nhâm cho Quyên nghe, lần lượt những "Chuyện sư Thiều", "Chuyện
ông giáo Qùy", "Chuyện chú Phụng" được xuất hiện. Với câu chuyện về Nhâm, về
Quyên, về sư Thiều, giáo Qùy, chú Phụng... bản chất của những người dân quê
được lộ rõ và không gian vùng quê cũng được hiện lên thật đầy đủ. Đó là những
mối quan hệ tình cảm, những cảnh đời khác nhau, những tính cách đa dạng, những
suy nghĩ của từng lớp người...diễn ra trong không gian làng quê cứ hiện ra
trước mắt người đọc. Qua từng truyện, chủ đề về cuộc sống của những người dân
quê lam lũ, vất vả nhưng hiền hòa, cao thượng, đầy tình nghĩa được hoàn thiện
một cách đầy đủ nhất.
Như vậy, xét về mặt nội
dung, cách tổ chức các truyện trong cả chùm truyện của Nguyễn Huy Thiệp đã mang
lại hiệu quả nghệ thuật cao. Tuy nhiên, trong các chùm truyện của Nguyễn Huy
Thiệp, phương diện hình thức cũng đóng góp không nhỏ cho sự thành công của chùm
truyện. Chúng tôi muốn bàn đến sự kết hợp yếu tố tự luận- thơ trong các tác
phẩm văn xuôi ấy của Nguyễn Huy Thiệp.
2. Yếu tố tự luận trong các chùm truyện
Yếu tố tự luận trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp đóng vai
trò lớn cho sự thành công của tác phẩm và tạo nên sự khác biệt của Nguyễn Huy
Thiệp. Yếu tố tự luận thường là những câu văn trữ tình ngoại đề mang tình triết
lí về các vấn đề liên quan đến vấn đề được đề cập đến trong tác phẩm. Nếu như
những tác phẩm trong văn học trung đại và cận hiện đại, người kể chuyện ở ngôi
thứ ba nên lời trữ tình ngoại đề thường là lời phát biểu của tác giả, thì trong
văn học hiện đại, người kể chuyện rất đa dạng và điểm nhìn cũng rất đa dạng.
Điểm nhìn có thể là của tác giả, cũng có thể là của nhân vật. Vì vậy, những lời
trữ tình ngoại đề không nhất thiết là của tác giả mà có thể là lời nhân vật
phát biểu qua độc thoại nội tâm, qua đối thoại. Như vậy, lời tự luận hay là trữ
tình ngoại đề không chỉ của tác giả mà cả ở nhân vật. Tác giả không toàn quyền
phát biểu những sy nghĩ của mình mà nhân vật, tự thân nó có thể phát biểu những
vấn đề mang tính triết lí bên ngoài cốt truyện.
Đây là đặc điểm nổi bật trong các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp nói
chung và các truyện ngắn liên hoàn của ông nói riêng. Những câu tự luận trong
tác phẩm mang tính triết lí- chiêm
nghiệm, tự vấn về gía trị, bản chất của cuộc sống. Trong các tác phẩm của mình,
nhà văn Nam Cao cũng thường xuyên triết lí. Triết lí của Nam Cao thường được
phát biểu rải rác trong lời kể của chính tác giả và cả trong những dòng độc
thoại nội tâm của nhân vật. Đến Nguyễn Minh Châu, tính triết lí càng đậm đặc. Nguyễn
Minh Châu gần như đã tiếp cận đến quy luật của cuộc sống, đặc biệt là quy luật
của đời sống tâm hồn con người. Nguyễn Minh Châu triết lí thông qua những dòng
độc thoại nội tâm, thông qua đối thoại của các nhân vật trải đời.... Nguyễn Huy
Thiệp thì cũng thể hiện triết lí qua lời kể của mình và dòng độc thoại nội tâm
của nhân vật. Nhưng điểm khác của Nguyễn Huy Thiệp so với hai nhà văn kể trên
là chất triết lí được thể hiện rất nhiều ở những phát ngôn trực tiếp của nhân
vật, và nhân vật nào cũng triết lí : từ quan lại cho đến thứ dân, từ những
người trí thức cho đến những người vô học, từ già đến trẻ...
Triết lí của Nguyễn Huy
Thiệp thường là những triết lí về văn chương, về bản chất con người và bản chất
xã hội
2.1. Triết lí về văn
chương, về nhà văn
Có thể thấy, hầu hết những
truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đều chứa đựng một hoặc vài lời triết lý của
ông về văn chương. Điều đó chứng tỏ, Nguyễn Huy Thiệp là người hay trăn trở về
văn chương và ý nghĩa của nó. Những triết lý đó, được phát biểu gián tiếp qua
các nhân vật, hoặc đôi khi phát biểu một cách trực tiếp. Như đã nói ở trên, Nam
Cao cũng thường thể hiện những quan niệm của mình trên trang viết của mình.
Nhưng với Nguyễn Huy Thiệp, văn chương không đơn giản và rành mạch như Nam Cao.
Cái nhìn của ông về văn chương có gì đó rất phức tạp - phức tạp như chính cuộc
đời. Qua suy nghĩ của người nghệ sĩ, tác giả đã lên tiếng bình luận, triết lí :
"Văn chương là thứ bỉ ổi nhất. Nó
gây sự nổi loạn trong cuộc đời thường. Cuộc đời trôi đi đơn giản. Day dứt lại
để làm gì?" (Chút thoáng Xuân
hương). Ông đau đớn nhận ra thứ văn chương sự thật của mình đã gây ra bao
nhiêu đau khổ cho người đời. Nhưng rồi, ông không thể làm khác được. Ông không
thể viết ra thứ văn chương dễ dãi, sẵn sàng ca ngợi, tung hô, sẵn sàng dối trá.
Ông thà để người ta đau đớn trong đời thật còn hơn chìm đắm trong thứ hạnh phúc
giả tạo. Đây là một sự lựa chọn đầy khó khăn của Nguyễn Huy Thiệp. Đó là cái lý
của ông. Nếu cuộc đời cứ trôi đi đơn giản thì văn chương cũng đơn giản biết
nhường nào, "Day dứt lại để làm
gì?". Nhưng cuộc đời luôn hiện hữu những bất công, ngang trái, những
thiện- ác, tốt- xấu, con người- thú vật, văn hóa- bản năng...mà những điều đó,
với trách nhiệm của mình, văn chương mà cụ thể là mỗi nhà văn không thể làm
ngơ. Cái "day dứt" với
nghề, với đời buộc họ phải cầm bút. Nhà văn và văn chương phải tranh đấu cho sự
lẽ phải, cho cái phần nhân bản trong mỗi con người và nhân bản cho cả xã hội.
Đó cũng có thể là cái đích đến của mỗi nhà văn vậy.
Ngoài ra, ông còn để cho
những nhà hoạt động chính trị lên tiếng triết lí. Khi thống kê các quan niệm về
văn chương trên trang viết của Nguyễn Huy Thiệp, có một điều rất bất ngờ mà ít
ai để ý đến, đó là hầu hết những quan niệm văn chương của ông đều được thể hiện
qua cái nhìn của những nhà chính trị. Trước hết là lời của tri huyện Thặng
trong Chút thoáng Xuân Hương: “Hách chứ,
Thặng giơ ngón tay như quả chuối nắm ra trước Ấm Huy. Không hách để văn chương
các chú làm loạn à? Văn chương là miếng đất nghịch”. “Văn chương làm loạn”. Nó làm
loạn trong tiềm thức của con người, một cuộc nổi loạn mà không có một thế lực
nào có thể dập tắt được. Chính Thặng đã khẳng định: “Dân quen nô lệ, luật cứ ngặt nghèo, nghiêm khắc là xong. Không có bàn
bạc gì cả”. Nhưng Thặng lại phải “hách”
với văn chương, tức là Thặng sợ! Thể
hiện những quan niệm văn chương qua con mắt của những nhà chính trị, Nguyễn Huy
Thiệp không hề có ý muốn đối lập chính trị với văn chương. Thật ra, Nguyễn Huy
Thiệp luôn ý thức văn học phục vụ chính trị. Nhưng phục vụ chính trị không đơn
thuần là là truyền bá những tư tưởng chính trị "Dân ta cực khổ. Tôi trông vào đâu cũng thấy xót xa. phải lấy lẽ văn
chương và sự công bằng pháp luật hướng đạo dân mình" (Chút thoáng Xuân
Hương). Như vậy, với Nguyễn Huy Thiệp, ý nghĩa cao nhất của văn học đối với
chính trị là ở chỗ: Văn học giữ gìn lương tri cho chính trị. Văn học phải tác
động vào chính trị để có sự công bằng cho mọi người, để không phải thấy những
cảnh xót xa, tủi nhục trong cuộc đời.
Lời của các nhân vật đều
công nhận sức mạnh của văn chương. Văn chương phục vụ chính trị nhưng không
truyền bá tư tưởng chính trị mà văn chương hướng đến cái phần nhân văn, nhân
bản cao đẹp của con người. Tác giả còn muốn nói: lí lẽ của văn chương luôn song
hành với cán cân công lí của chính trị. Văn chương hướng đến tính nhân bản của
công lí. Chính trị phải vì hạnh phúc của con người. Vì thế, nếu người nắm luật
pháp mà không hành xử đúng cái phần nhân bản của luật pháp thì văn chương trở
thành "miếng đất nghịch"
cho cá nhân ấy.
2.2. Triết lí về bản chất
con người
Mặt đất
của chúng ta vẫn còn đang đầy rẫy những thói dối trá ti tiện, những bất công
độc ác, “những giáo điều đạo đức... giản
dị, ngây ngô, buồn cười, sơ lược thậm chí còn đểu giả nữa” (Những người thợ xẻ). Vẫn còn đó những
con người “đầy những thành kiến ngộ
nhận”, những “những đố kỵ, hằn thù,
ganh ghét, những định kiến hẹp hòi và đạo đức giả” đã làm thoái hoá bản
chất của con người lương thiện, của phần người trong mỗi một con người. Nguyễn
Huy Thiệp là người đi nhiều, biết nhiều nên những vấn đề về con người và cuộc
sống của họ được ông đưa vào văn mình với bao trăn trở khôn nguôi. Trong những
truyện ngắn liên hoàn của mình, Nguyễn Huy Thiệp đã bình luận rất nhiều về bản
chất con người.
Bản chất của con người thể
hiện trong tình yêu thường được phân biệt rất rạch ròi như lời của Chương "Tôi chưa yêu. Nhưng tôi nghĩ nếu ai
phản bội tình yêu thì xấu xa lắm". Phản bội tình yêu là sự xấu xa, bạc
tình bạc nghĩa. Nhưng xem Nguyễn Huy Thiệp nhận xét "Anh chẳng hiểu gì, kẻ phản bội cũng là người tốt, có điều người
ta không dám hi sinh" (Con gái thủy thần). Có một sự đánh giá toàn
diện cho những con người phụ bạc ấy. Họ phụ bạc chưa hẳn là xấu. Điều quan
trọng là họ sống trong cái xã hội này, cái ích kỉ, cái tôi của họ quá lớn. Con
người sinh ra vẫn có ở trong họ đức tính hi sinh. Nhưng xã hội đã thay thế nó
khi con người ta lớn lên. Cái đức tính biết hi sinh đã nhường chỗ cho thói ích
kỉ. Vì vậy, họ vẫn là người tốt. Điều căn bản là họ không thể vượt qua cái thói
ích kỉ của xã hội. Đến chuyện tình ái,
ông cũng triết lí : "Chuyện tình ái,
giống đực thường khôn ngoan và vô trách nhiệm, giống cái thì nhẹ dạ và tận tụy
quá" (Những ngon gió Hua Tát). Rồi ông lại cho rằng "Đàn ông các anh không chịu nổi những người
đàn bà rất tốt, tâm hồn người đàn bà phải hơi nhom nhem thì mới sống được. Bao
giờ cũng thế. Khi người đàn ông bất lực, thấy những kẻ khác to lớn hơn mình thì
họ gây sự" (Chút thoáng Xuân Hương). Bản chất của họ là thói gia
trưởng. Họ cho rằng họ có sức mạnh và có quyền. Nhưng rồi ông hạ bệ cái sức
mạnh ấy "Đàn ông các anh hư trẻ con
cả" . Tệ hại hơn "Cũng
giống hệt như đàn lợn của tôi. Khi nào được ăn thì phởn..."
Bản chất của con người là phải sống giả dối "Giả dối thì đúng là đức tính...không thể giàu có mà không giả
dối".
Còn mọi đức tính đáng quí khác chẳng thể làm nên sự giàu có "Những người khôn ngoan bao giờ cũng sẽ
đau khổ, thậm chí bất hạnh. Họ biết quá nhiều [...] [...] Trung thực bao giờ cũng chịu đau khổ thiệt thòi" (Những ngọn gió
Hua Tát). Khôn ngoan và trung thực là những đức tính đáng quí trọng trong
mỗi con người. Nhưng trong xã hội này nó bị bài xích. Vì khôn ngoan và trung
thực chỉ mang lại sự đau khổ, bất hạnh và thiệt thòi cho cuộc đời con người.
Chỉ có giả dối mới sống được. Chỉ có giả dối mới không phải chịu những đau khổ
trên mà còn được giàu có sung sướng. Lời trữ tình ngoại đề tuy có vẻ vô lí,
trái khuấy, nhưng đó là bản chất cần có của con người trong cuộc sống này. Mọi
phẩm chất tốt đẹp hình như dần dần bị loại bỏ. Lời triết lí này, có thể khẳng
định là một hồi chuông cảnh báo cho sự bào mòn nhân cách của mỗi con người.
Sự giả dối thể hiện ra cả bề ngoài của họ "Ông không chịu được cái vẻ sạch sẽ gớm
ghiếc của người đời. Nó chán chết". Chán đến nỗi, ông muốn vứt tất cả
nó đi. "Ông thích những gì ào ạt của
cuộc sống thực trần tục" (Chút thoáng Xuân Hương). Cuộc sống trần tục
đối với Nguyễn Huy Thiệp là thanh sạch nhất, đáng trọng nhất. Chỉ có cuộc sống
trần tục mới giữ được những bản chất truyền thống trong mỗi con người Việt Nam.
Ông cũng triết lí về sự sung sướng của người đời "Tất cả bí mật của vũ trụ, xã hội, công danh, tiền bạc, nghệ
thuật...kể cả tôn giáo, chính trị- là tình dục" là "ăn
ngon. lời tâng bốc và sex", là ở chữ "Sướng". Tình dục là cái đáng trân trọng, nâng niu nhất "Những tiếng kêu ấy chính là ngôn ngữ
nguyên thủy, tinh khiết. Nó trong sáng hơn mọi thứ tiếng ru, thơ phú và nhã
nhạc". Quan niệm hưởng thụ như trên là quan niệm của những con người
trẻ sống trong xã hội hiện đại. Lí tưởng, hoài bão, công danh, tiền bạc đều
không là gì so với tình dục. "Tình
dục là văn hóa" của mọi thứ văn hóa.
Qua việc khảo sát triết lí
về bản chất con người trong ba chùm truyện của Nguyễn Huy Thiệp, chúng tôi nhận
thấy những triết lí ấy là những dự báo về sự suy thoái về đạo đức, về quan niệm
sống của những con người hiện đại. Tác giả chỉ triết lí chứ nó chưa phải là
chân lí nhưng sẽ gợi cho người đọc sự suy nghĩ về tương lai của con người trong
cuộc sống tương lai.
2.3. Triết lí về bản chất
xã hội
Bản chất xã hội được Nguyễn Huy Thiệp miêu tả là một xã hội
"loạn cờ" bởi một chữ tiền. Vì vậy, Nguyễn Huy Thiệp đã triết lí về
sức mạnh của đồng tiền trong nền kinh tế thị trường rất nhiều trong các tác
phẩm của mình. Khi bản chất của con người bị phân hóa của đồng tiền, tức là lúc
đồng tiền đã được đặt lên ở vị trí tối thượng. Đến những kỉ niệm ông cũng "nhổ toẹt" vào. Bởi vì: "Mẹ khỉ! Tôi nôn mửa vào kỉ niệm. Nó không sinh ra tiền bạc, nó
chẳng mảy may mang lại cho tôi một nụ cười nào. Ở đấy không có hi
vọng"(Con gái thủy thần). Kỉ niệm chẳng là gì khi nó chẳng sản sinh ra
tiền bạc. Tiền bạc là trên hết đối với con người. Con người ngoài việc sống
trong hiện tại và sống cho tương lai thì còn phải sống với những kỉ niệm của
mình. Những kỉ niệm ấy sẽ giúp con người sống tốt hơn. Nhưng ở đây ông đã phủ
nhận tất cả. Cái trên hết là tiền bạc trong hiện tại. Tuy triết lí của ông thật
phũ phàng, nhưng đó là những nỗi cay đắng trong sự thay đổi trong bản chất con
người trong cuộc sống hiện tại, mà với tư cách của một nhà văn, ông không thể
im lặng. Tiền bạc đã ảnh hưởng lớn
đến cái nhìn của con người "Anh thấy
tôi giàu, anh tưởng tôi đẹp. Anh thấy tôi học thức, anh tưởng tôi đẹp"
(Con gái thủy thần). Con người đẹp hay xấu hãy nhìn vào tài sản, học thức
của họ. Quan niệm thẩm mĩ với chữ tiền đã bị chi phối đáng kể. Nếu anh không có
tiền "nghĩa là anh không có gì cả.
Anh là kẻ yếu". Xã hội so bì nhau bằng chữ tiền. "Anh không có của cải, không có sở hữu cá nhân" đồng
nghĩa với việc "anh không có quyền
sĩ diện, không nên tự ái, không nên phản kháng". Tiền bạc đã tạo nên
sự phân cấp rõ nét trong quan hệ xã hội. Nếu có tiền, anh là kẻ mạnh, còn không
có tiền thì ngược lại. Không có tiền đồng nghĩa với không có bất cứ một quyền
nào cả. Quyền cá nhân tối thiểu nhất của con người là tự ái cũng không còn.
Xã hội này còn là xã hội
của những kẻ không có lương tâm. Nguyễn Huy Thiệp nhìn xã hội và thấy toàn "một lũ vô học và vô lương tâm vẫn đang
nhởn nhơ ăn sung mặc sướng. Như thể ông hoàng, bà chúa". "Ông thấy
trong đời toàn những thằng ác, thằng hèn nhưng lại ranh khôn như cáo"
(Chút thoáng Xuân Hương). Một xã hội đày rẫy những gương mặt nhưng "chẳng có gương mặt nào đáng là mặt
người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì
cũng nhăn nhúm đau khổ" (Con gái thủy thần). Một xã hội đầy rẫy những
gương mặt thú, những gương mặt không ra con người.
Một xã hội mà ở đó các vấn
đề mang tính kiến trúc thượng tầng bị coi rẻ. Quy luật phát triển "phủ
định của phủ định" mang tính trừu tượng đã được hiện thực hóa một cách rõ
ràng "Quy luật phủ nhận, tôi nghĩ nó
giống như trâng đòn thù đê tiện của bọn đô Thi, tôi căm ghét nó, nó thành quy
luật thì phải trả thù, phải nện đau hơn nó đã nện mình" (Con gái thủy
thần). Quy luật cái sau phủ định cái trước những vẫn kế thừa những yếu tố
tích cực của cái trước trong quá trình phát triển của xã hội đã trở thành quy
luật của sự thù hằn, trở thành quy luật giải quyết mâu thuẫn một cách tệ hại
của con người với con người. Muốn mình phát triển thì mình phải mạnh hơn kẻ
khác. Rõ ràng, vấn đế mang tính tư tưởng cao siêu, là thành tựu của cả nhân
loại đã bị dung tục hóa. Điều đó càng được khẳng định rõ hơn qua lời của nhân
vật Thặng "tất cả mọi thứ thanh cao
hoang tưởng vẫn chết trong cõi dung tục như thường" (Chút Thoáng Xuân
Hương). Mọi thứ cao quý đều bị "nhổ
toẹt vào...thậm chí tình yêu, đạo đức, tình bạn, sự tín nghĩa, lòng trung thực,
cả tôn giáo nữa. Nó biết tất cả những điều ấy chỉ là ước lệ, không chính xác
bao nhiêu, độ bền vững thấp" (Con gái thủy thần). Con người đã mất
lòng tin thì những thứ được cho là cao quý cũng không còn gì là cao quý. Con
người sẽ 'nhổ toẹt" vào tất cả. Bản chất xã hội mà Nguyễn Huy Thiệp triết
lí đã mang đến cho người đọc suy nghĩ về sự xuống cấp của nó. Khi bản chất xã
hội xuống cấp thì những vấn đề thuộc kiến trúc thượng tầng nói trên đáng để
mang ra phỉ báng.
Tóm lại, yếu tố tự luận
trong văn Nguyễn Huy Thiệp, trước tiên đã mang đến những nội dung triết lí
phong phú và đa dạng trên trang văn của ông. Những câu triết lí được tác giả là
người phát ngôn hay nhân vật là người phát ngôn đều mang đến hiệu quả nghệ
thuật to lớn. Với những lời văn triết lí dày đặc trong tác phẩm, Nguyễn Huy
Thiệp xứng đáng là nhà văn triết lí. Nhưng cái hay trong việc kết hợp yếu tố tự
luận với tự sự là ở việc, tác giả đã để những câu tự luận mang tính triết lí
xen vào mạch truyện một cách tự nhiên, không hề có sự gượng ép gượng gạo nào.
Những câu tự luận như gắn liền mạch với những câu văn tự sự. Phải đọc kĩ, đọc
nhiều mới thấy được những câu triết lí ấy. Đôi lúc, khi đọc tác phẩm của ông,
với câu văn tự luận, người đọc cứ ngỡ đó là chi tiết của cốt truyện, lại có lúc
tưởng rằng đó là câu tự luận. Có sự hòa nhập như thế là một sự thành công về
việc tổ chức lời văn nghệ thuật của tác giả.
3. Yếu tố thơ trong các chùm truyện
Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: "Từ những trang văn xuôi
ngổn ngang bề bộn, thậm chí còn xô bồ, tục tỉu và đầy khinh bạc của Nguyễn Huy
Thiệp nhiều khi thấy vút lên những tứ thơ thật trong trẻo, những âm điệu thật
thiết tha. Và bao giờ cũng mênh mang buồn. Buồn thương xót xa vẫn là âm hưởng
bao trùm lên mọi trang viết của Nguyễn Huy Thiệp". Đỗ Đức Hiểu cũng cho
rằng: "Giá có ai tập hợp tất cả các câu thơ trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, chúng ta sẽ có một tập thơ Nguyễn Huy Thiệp. Những câu thơ không vần ấy
vừa gợi mở, vừa đóng kín, nó bí ẩn và tiên tri, người đọc nghĩ đến những chân
trời khác". Với hai ý kiến trên đã cho thấy rõ vai trò của thơ, cái hay,
cái độc đáo của thơ trong tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp. Rõ ràng, đối
với Nguyễn Huy Thiệp việc sử dụng thơ, đó không phải là điều ngẫu nhiên mà là
do nhu cầu do tư chất tài năng của tác giả gây nên, một nhu cầu đòi hỏi phải
thoát ra.
Thơ xuất hiện trong các tác phẩm có nhiều nguồn gốc khác
nhau. Thơ mượn của các nhà thơ khác: "Chút thoáng Xuân Hương" mượn
thơ của Hồ Xuân Hương. Thơ do chính Nguyễn Huy Thiệp sáng tác như trong
"Thương nhớ đồng quê". Những câu thơ dân gian được nhà văn sử dụng
lại theo cách của mình, điển hình như truyện "Con gái thủy thần".
Thơ được Nguyễn Huy Thiệp sử dụng sáng tạo và được đặt đúng
vị trí trong tác phẩm.
3.1. Thơ được dùng làm đề
từ.
Trong chùm truyện
"Con gái thủy thần", mở đầu cho mỗi truyện là những câu thơ. Mở đầu
"Truyện thứ nhất", tác giả lấy một lời hát cổ:
"Cái tình chi
Mượn
màu son phấn ra đi"
Lời ca đã gieo vào lòng
người những suy nghĩ bâng khuâng. Tứ thơ cũng là nội dung chính của truyện.
Nhân vật Chương trong suốt hành trình của mình đã vin vào tình yêu bất di bất
dịch của mình với mẹ cả. Câu hát ngân nga đã thâu tóm phần hồn của tác phẩm. Đó
chính là nỗi trăn trở thường trực trong tâm hồn Chương: "Con gái thủy thần! Nàng ở đâu? [...] Để tôi mượn màu son phấn ra
đi".
Mở đầu cho "Truyện
thứ ba", tác giả lấy hai câu thơ của nhà thơ Nguyễn Bính
"Giang hồ sót lại mình tôi
Quê người đắng khói, quê người cay
mưa"
Lời thơ cũng là sự
"rút ruột" nội dung của truyện. Chương trong hành trình của mình đã
đến làm thuê cho nhà cô Phượng. Chương bị bóc lột về thân xác đến mức "bất
lực". Đắng cay trăm bề. Cuối cùng Chương phải tủi nhục ra đi.
Trong chùm truyện "Chút thoáng Xuân Hương",
Nguyễn Huy Thiệp đã lấy ngay câu thơ của thi sĩ làm câu đề từ
"Chành ra ba góc da còn thiếu..."
đã khái quát được số phận
nghiệt ngã của Xuân Hương . Xuân Hương đã rất khát khao tình duyên, trân trọng
tình duyên, cố gắng gìn giữ nó. Nhưng số phận cứ nghiệt ngã cứ đeo đẳng nàng.
Như vậy, việc tác giả chọn những câu ca cổ hay là những vần
thơ trung đại, hiện đại làm câu thơ đề từ là có dụng ý rõ rệt. Người đọc trước
khi tiếp xúc với văn bản, trước tiên phải tiếp xúc với câu thơ đề từ. Qua câu
thơ đề từ, người đọc đã bước đầu định hình được nội dung tác phẩm. Và khi tiếp
xúc với văn bản xong, đặt văn bản trong sự tương tác với câu thơ đề từ sẽ thấy
được cái tài năng của Nguyễn Huy Thiệp. Câu thơ đề từ như là nội dung tác phẩm
đã được tác giả chắc đọng lại thành sự tinh túy trong văn vần vậy.
3.2. Thơ được dùng làm lời
hát của các nhân vật
Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, các nhân vật chính hoặc
các nhân vật phụ hát những bài ca, nhất là những câu ca riêng lẻ, phần lớn do
Nguyễn Huy Thiệp đặt ra. Trong "Truyện thứ nhất" trong chùm truyện
"Chút thoáng Xuân Hương", người chồng đầu của nữ sĩ là Tổng Cóc nghe
thấy thằng mõ xướng bài ca, gọi là vè thì đúng hơn
"Chiềng làng, chiềng chạ...
Trên
ngược dưới xuôi
Làng
ta có người
Không
chồng mà chửa...ửa.."
Bài vè nói về cô thôn nữ
tên Huệ không chồng mà chửa. Khi đọc đến chi tiết này, ta bất giác nhớ lại bài
thơ nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, mà trong đó nhân vật trữ tình cũng "không
chồng mà chửa". Biết đâu rất có thể Hồ Xuân Hương, cũng như chồng bà, đã
nghe thấy bài vè này, và nó đã gợi ý cho bà viết ra bài thơ đó? Bài ca này đóng
vai trò quan trọng trong việc cấu thành cốt truyện. Có bài ca này, người đọc
mới thấy được suy nghĩ và cách ứng xử khôn khéo, hiểu đời, hiểu người của Tổng
Cóc.
Như vậy, những bài ca được tác giả sử dụng trong những
truyện ngắn của mình là một chi tiết quan trọng cấu thành nên cốt truyện.
3.3. Thơ là dòng suy nghĩ
của nhân vật
Thơ xuất hiện nhiều trong suy nghĩ của nhân vật. Đó là thơ
của Nguyễn Huy Thiệp trực tiếp tạo ra. Đó là những dòng tâm tưởng của nhân vật,
có khi đó là những triết lí về cuộc đời, con người và về văn chương.
Trong "Thương
nhớ đồng quê" , thơ hiện ra trong suy nghĩ của Nhâm.
"Con đường đất
men theo rìa làng, qua đình làng, qua đám sen rồi theo bờ mương ngược về huyện
lỵ. Tôi nghĩ. Những ý nghĩa của tôi mông lung
Tôi
nghĩ
Tôi
nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ
Sự
bất lực của hình thức biểu đạt
Mà
nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất
Sự
vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất
Những
số phận hiu hắt đầy mặt đất
Bao
tháng ngày trôi đi
Bao
kiếp người trôi đi
Sự
khéo léo của ngôn từ nào kể lại được
Ai
nhặt cho tôi buổi sáng mai này
Nhặt
được ánh hoang vắng trong mắt em gái tôi
Nhặt
được sợi tóc bạc trên đầu mẹ tôi
Nhặt
được niềm hi vọng hão huyền
trong
lòng chị dâu tôi
Và
nhặt được mùi vị nghèo nàn trên
cánh
đồng quê?
Tôi
rốt ráo bắt tỉa từng ý nghĩ
Tìm
cách suy nghĩ cho nó vào chuồng
Và
tôi hú gọi trên cánh đồng lòng
Tru
lên như con sói hoang
Tôi
gắng gặt một lượm sống
Bó
buộc lỏng lẻo bởi dải băng ngôn từ
Tôi
hú gọi trên cánh đồng người
Tôi
nhặt những ánh mắt đời
Hòng
dõi theo ánh mắt tôi
Dõi
vào cõi ý thức
Cõi
ý thức mênh mông xa vời
Dầu
tôi biết vô nghĩa, vô nghĩa, vô nghĩa mà thôi"
Qua dòng suy nghĩ của Nhâm
hay chính là suy nghĩ của tác giả, triết lí về văn chương về cuộc đời đã hiện
lên rõ ràng. Dù có phần hơi gượng ép trong việc đặt những dòng thơ vào đoạn văn
trên, nhưng ý nghĩa của dòng thơ thì không thể phủ nhận. Khi nỗi nhọc nhằn đầy
mặt đất, nỗi khổ đau đầy mặt đất thì người nghệ sĩ như bị bất lực về ngôn từ.
Bởi ngôn từ không thể thể hiện đầy đủ những đau khổ ấy. Văn chương là phải phản
ánh được những đau đớn ấy. Văn chương là hiện thực cuộc đời đầy mênh mông, rộng
lớn. Đoạn thơ cũng gởi gắm tâm trạng tuyệt vọng của tác giả khi không thể hiện
được hết nỗi đau của con người. Cả bài thơ không theo một hình thức biểu đạt cụ
thể nào của thơ. Nó cũng tự do, mông lung như những suy nghĩ của nhân vật.
Rồi cuộc đời hiện sinh hiện lên trong chuỗi triết lí
"Trăm năm lẫn lộn khóc cười
Kiếp
ếch kiếp người cay hỡi đắng cay..."
Nhà thơ Nguyễn Công Trứ
ngày xưa đã từng bộc bạch:
"Kiếp sau xin chớ làm người
Làm
cây thông đứng giữa trời mà reo"
Có lẽ cũng vì nỗi
"cay hỡi đắng cay" này. Kiếp người chẳng khác các kiếp vật. Kiếp
người khổ sở vật vã trong kiếp đời , không thoát ra được. Trong xã hội hiện đại
thì nỗi khổ lại càng day dứt hơn. Triết lí về kiếp người được thâu tóm trong
hai dòng thơ ngắn gọn. Có thể khẳng định tài năng của Nguyễn Huy Thiệp vậy.
Tâm trạng của Nhâm trong tác phẩm cũng được thể hiện bằng
thơ: "Chúng tôi chào ông giáo Qùy
rồi ra đồng. Quyên bảo: "Cánh đồng rộng quá...Anh có biết cánh đồng bắt
đầu từ đau không?"
Cánh
đồng bắt đầu từ nơi rất sâu trong lòng tôi
Trong
máu thịt tôi đã có cánh đồng
Đứng
bên ni đồng mênh mông bát ngát
Đứng
bên tê đồng bát ngát mênh mông
[...]"
Cứ như tự nhiên mà thoát
ra thành thơ vậy. Đoạn thơ trên đã có sự kết nhịp nhàng với những dòng tự sự,
phù hợp với dòng tâm trạng của nhân vật. Đoạn thơ đã nhấn mạnh, tô đậm chính
cái cần thiết về mặt cốt truyện của "Thương
nhớ đồng quê".
Như vậy, trong văn Nguyễn
Huy Thiệp, việc vận dụng thơ của mình hát những lời đồng dao, lời hát cổ, hay
của các nhà thơ khác đều có ý nghĩa. Thơ dù đặt ở vị trí nào trong bài thơ thì
cứ tuôn chảy tự nhiên như thế. Đặt làm câu thơ đề từ thì làm toát lên được cái
chủ đề của truyện. Đặt ở giữa truyện thì là một chi tiết quan trọng trong diễn
tiến câu chuyện. Thơ làm tăng sắc điệu trữ tình cho tác phẩm. Thơ khắc họa nội
tâm nhân vật rõ nét hơn, tạo ra rung động cho người đọc nhiều hơn. Vậy là, thơ
có đóng góp quan trọng trong sự thành công văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp
KẾT LUẬN
Qua khảo sát yếu tố tự
luận và yếu tố thơ trong các truyện ngắn liên hoàn của Nguyễn Huy Thiệp, chúng
tôi nhận thấy: những yếu tố này được thể hiện xen kẽ một cách tự nhiên trong
tác phẩm, bộc lộ được chủ đề tư tưởng của truyện và tạo ra được những điểm mới
về hình thức cho những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp. Có lẽ, cái lạ,
cái độc đáo của Nguyễn Huy Thiệp đã được thể hiện rõ nét ở những yếu tố này.
Những yếu tố trên đã góp phần tạo nên "hiện tượng" Nguyễn Huy Thiệp
những năm 80 của thế kỉ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Xuân Nguyên, Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội, 2001.
2. Nguyễn Huy Thiệp, Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn
học, 2000.
Nguyễn Thế Thạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét